Viện Nghiên Cứu Phật Học

Tam tạng Thánh điển PGVN 18 » Tam tạng Phật giáo Bộ phái 02 » 

Kinh Trung A-Hàm
(中阿含經)

Dịch tiếng Việt: VIỆN CAO ĐẲNG PHẬT HỌC HẢI ĐỨC - NHA TRANG
Hiệu đính: Hòa Thượng THÍCH THIỆN SIÊU

Mục Lục

79. KINH HỮU THẮNG THIÊN

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng Lâm, vườn Cấp Cô Độc.

Bấy giờ, Tiên-dư tài chủ bảo người sứ:

- Ông hãy đến đức Phật, thay ta cúi đầu đảnh lễ dưới chân đức Thế Tôn và thăm hỏi Ngài xem thánh thể có khang cường, an vui, không bệnh, đi đứng dễ dàng, khí lực bình thường chăng. Hãy nói như vầy: “Tiên-dư tài chủ cúi lạy chân Phật, thưa hỏi Thế Tôn xem thánh thể có khang cường, an vui, không bệnh, đi đứng dễ dàng, khí lực bình thường chăng.” Khi ông đã thay ta thăm hỏi Phật rồi, hãy đến chỗ Tôn giả A-na-luật-đà cũng thay mặt ta, cúi lạy dưới chân Tôn giả, rồi thăm hỏi xem thánh thể có khang cường, an vui, không bệnh, đi đứng thoải mái nhẹ nhàng, khí lực bình thường chăng. Hãy nói như vầy: “Tiên-dư tài chủ cúi lạy dưới chân Tôn giả A-na-luật-đà, thưa hỏi ngài: ‘Thánh thể có khang cường, an vui, không bệnh, đi đứng thoải mái nhẹ nhàng, khí lực bình thường chăng?’ Tiên-dư tài chủ cung thỉnh Tôn giả A-na-luật-đà, tất cả bốn vị ngày mai cùng đến thọ trai.” Nếu ngài nhận lời thì thưa thêm rằng: “Bạch Tôn giả, Tiên-dư tài chủ nhiều công việc lắm, làm các việc cho vua, giải quyết việc thần tá, cúi xin Tôn giả vì lòng thương xót, cùng tất cả bốn vị nữa ngày mai đến nhà Tiên-dư tài chủ.”

Lúc ấy, người sứ nghe lời Tiên-dư tài chủ dạy xong, đi đến chỗ Phật, cúi lạy chân Ngài, đứng qua một bên và bạch:

- Bạch đức Thế Tôn, Tiên-dư tài chủ cúi lạy chân Phật, thăm hỏi Thế Tôn thánh thể khang cường, an vui, không bệnh, đi đứng thoải mái nhẹ nhàng, khí lực bình thường chăng?

Bấy giờ, Thế Tôn bảo người sứ:

- Mong rằng Tiên-dư tài chủ an ổn, khoái lạc! Mong rằng trời, người, a-tula, càn-thát-bà, la-sát và tất cả loài khác đều an ổn, khoái lạc!

Khi ấy, người sứ nghe lời Phật dạy, khéo ghi nhớ, cúi lạy chân Phật, nhiễu quanh ba vòng rồi lui ra. Người sứ đi đến chỗ A-na-luật-đà, cúi lạy rồi ngồi qua một bên mà bạch:

- Bạch Tôn giả A-na-luật-đà, Tiên-dư tài chủ cúi lạy chân ngài, thăm hỏi Tôn giả: “Thánh thể có khang cường, an vui, không bệnh, đi đứng thoải mái nhẹ nhàng, khí lực bình thường chăng?” Tiên-dư tài chủ cung thỉnh Tôn giả và tất cả bốn vị, ngày mai cùng đến thọ trai.

Lúc ấy, cách Tôn giả A-na-luật-đà không xa, Tôn giả Chơn-ca-chiên-diên đang ngồi nghỉ. Tôn giả A-na-luật-đà liền nói:

- Hiền giả Chơn-ca-chiên-diên, tôi đã có nói ngày mai chúng ta vào thành Xá-vệ để khất thực chính là đây vậy. Hôm nay, Tiên-dư tài chủ sai người thỉnh chúng ta, bốn người cùng thọ trai ngày mai.

Tôn giả Chơn-ca-chiên-diên liền thưa:

- Mong Tôn giả A-na-luật-đà vì người ấy mà im lặng nhận lời mời! Ngày mai chúng ta ra khỏi khu rừng tối này để vào thành Xá-vệ khất thực.

Tôn giả A-na-luật-đà vì người ấy mà im lặng nhận lời. Lúc đó, người sứ biết Tôn giả A-na-luật-đà im lặng nhận lời rồi, liền thưa thêm:

- Tiên-dư tài chủ bạch Tôn giả: “Tiên-dư tài chủ nhiều công việc, làm các việc cho vua, giải quyết việc thần tá, mong Tôn giả vì lòng thương xót, tất cả bốn vị ngày mai đến nhà Tiên-dư tài chủ!” Tôn giả A-na-luật-đà bảo người sứ:

- Ông cứ trở về, tôi tự biết thời!

Lúc ấy, người sứ liền từ chỗ ngồi đứng dậy, cúi đầu đảnh lễ, nhiễu ba vòng rồi lui ra.

Đêm tàn, trời sắp sáng. Tôn giả A-na-luật-đà khoác y, cầm bát và tất cả bốn vị, cùng đến nhà Tiên-dư tài chủ. Bấy giờ, Tiên-dư tài chủ có thể nữ vây quanh, đứng ở cửa giữa, chờ Tôn giả A-na-luật-đà. Tiên-dư tài chủ thấy Tôn giả A-naluật-đà từ xa đi đến. Sau khi thấy, Tiên-dư tài chủ chắp tay hướng về Tôn giả tán thán:

- Kính chào Tôn giả A-na-luật-đà, đã lâu rồi ngài không đến đây!

Với lòng cung kính, Tiên-dư tài chủ đỡ Tôn giả A-na-luật-đà vào trong nhà, mời ngồi trên giường tốt đẹp đã bày sẵn. Tôn giả liền ngồi trên giường ấy. Tiêndư tài chủ cúi lạy dưới chân Tôn giả A-na-luật-đà, ngồi qua một bên mà bạch:

- Kính bạch Tôn giả A-na-luật-đà, con có điều muốn hỏi, xin ngài nghe cho!

- Này tài chủ, tùy theo ông hỏi, tôi nghe rồi sẽ suy nghĩ!

Tiên-dư tài chủ hỏi Tôn giả A-na-luật-đà:

- Hoặc có Sa-môn, Phạm chí đi đến chỗ con, bảo con: “Này tài chủ, ông nên tu đại tâm giải thoát.” Bạch Tôn giả, lại có Sa-môn, Phạm chí đi đến chỗ con, bảo con: “Này tài chủ, ông nên tu vô lượng tâm giải thoát.” Bạch Tôn giả, đại tâm giải thoát và vô lượng tâm giải thoát, hai giải thoát này khác văn, khác nghĩa hay một nghĩa nhưng khác văn?

Tôn giả A-na-luật-đà bảo:

- Này tài chủ, ông hỏi điều này trước, vậy ông hãy tự trả lời trước, rồi tôi sẽ trả lời sau.

- Bạch Tôn giả, đại tâm giải thoát, vô lượng tâm giải thoát, hai giải thoát này đồng một nghĩa nhưng khác văn. Điều này, Tiên-dư tài chủ không thể trả lời được.

Tôn giả A-na-luật-đà bảo:

- Này tài chủ, hãy lắng nghe. Tôi sẽ nói cho ông về đại tâm giải thoát và vô lượng tâm giải thoát. Đại tâm giải thoát là nếu có Sa-môn, Phạm chí ở chỗ vô sự hoặc đến gốc cây, chỗ yên tịnh, y cứ một cây, ý giải về đại tâm giải thoát, biến mãn, thành tựu và an trú chỉ với giới hạn bằng chừng đó, tâm giải thoát không vượt hơn chỗ đó. Nếu không y cứ vào một cây, y cứ vào hai, ba cây, ý giải về đại tâm giải thoát, biến mãn, thành tựu an trú với giới hạn bằng chừng đó, tâm giải thoát không vượt hơn chỗ đó. Nếu không y cứ vào hai, ba cây thì hoặc y cứ vào một khu rừng; nếu không y cứ vào một khu rừng thì hoặc y cứ vào hai, ba khu rừng; nếu không y cứ vào hai, ba khu rừng, sẽ y cứ vào một thôn; nếu không y cứ vào một thôn, sẽ y cứ vào hai, ba thôn; nếu không y cứ vào hai, ba thôn thì hoặc y cứ vào một nước; nếu không y cứ vào một nước, sẽ y cứ vào hai, ba nước; nếu không y cứ vào hai, ba nước thì hoặc y cứ vào đại địa, cho đến đại hải, ý giải về đại tâm giải thoát, biến mãn, thành tựu an trú với giới hạn bằng đó, tâm giải thoát không vượt hơn chỗ đó. Đó là đại tâm giải thoát.

Này tài chủ, thế nào là vô lượng tâm giải thoát? Nếu có Sa-môn, Phạm chí ở chỗ vô sự, hoặc đến gốc cây, chỗ yên tĩnh, trống trải, tâm đi đôi với từ, biến mãn một phương, thành tựu an trú. Như vậy hai, ba, bốn phương, bốn hướng, trên dưới cùng khắp mọi nơi, tâm đi đôi với từ, không kiết, không oán, không giận, không tranh, rất rộng, rất lớn, vô lượng, khéo tu tập, biến mãn tất cả thế gian, thành tựu an trú. Cũng như vậy, tâm đi đôi với bi, hỷ, xả, không kiết, không oán, không giận, không tranh, rất rộng, rất lớn, vô lượng, khéo tu tập, biến mãn tất cả thế gian, thành tựu an trú. Đó là vô lượng tâm giải thoát.

Này tài chủ, đại tâm giải thoát, vô lượng tâm giải thoát, hai giải thoát này khác nghĩa, khác văn hay đồng một nghĩa nhưng khác văn?

Tiên-dư tài chủ đáp:

- Từ chỗ con nghe Tôn giả thì con hiểu được nghĩa ấy. Hai giải thoát ấy nghĩa đã khác nhau mà văn cũng khác.

Tôn giả A-na-luật-đà bảo:

Này tài chủ, có ba cõi trời: Quang thiên, Tịnh Quang thiên và Biến Tịnh Quang thiên. Trong đó, chư thiên cõi Quang thiên sanh tại một chỗ, không nghĩ rằng: “Đây là sở hữu của ta, kia là sở hữu của ta”, nhưng chư thiên ấy tùy chỗ họ đến mà liền vui say trong đó. Này tài chủ, ví như con ruồi ở nơi miếng thịt, không nghĩ rằng: “Đây là sở hữu của ta, kia là sở hữu của ta”, nhưng con ruồi chỉ theo miếng thịt mà vui say trong đó. Cũng vậy, chư thiên cõi Quang thiên không nghĩ rằng: “Đây là sở hữu của ta, kia là sở hữu của ta”, nhưng chư thiên ấy chỉ tùy chỗ họ đến mà vui say trong đó.

Có thời gian chư thiên cõi Quang thiên họp lại một chỗ, tuy sắc thân có khác nhau nhưng ánh sáng không khác. Này tài chủ, ví như có người thắp vô số cây đèn treo ở trong một cái nhà, các cây đèn kia tuy khác nhưng ánh sáng của đèn không khác; cũng vậy, chư thiên cõi Quang thiên họp lại một chỗ, tuy sắc thân có khác nhưng ánh sáng không khác. Có lúc chư thiên ấy đều tự tản mác, lúc họ tự tản mác thì sắc thân của họ đã khác mà ánh sáng cũng khác. Này tài chủ, ví như có người từ trong một cái nhà đem ra nhiều cây đèn, phân chia treo nơi các nhà, những cây đèn đó đã khác mà ánh sáng cũng khác; cũng vậy, chư thiên ấy tự tản mác, lúc họ tự tản mác thì sắc thân của họ đã khác mà ánh sáng cũng khác.

Lúc ấy, Tôn giả Chơn-ca-chiên-diên thưa:

- Tôn giả A-na-luật-đà, các vị Quang thiên sanh ở một chỗ có thể biết sự hơn, bằng, vi diệu và không vi diệu chăng?

Tôn giả A-na-luật-đà đáp:

- Này Hiền giả Chơn-ca-chiên-diên, có thể nói, các vị Quang thiên ấy sanh ở một chỗ, biết sự hơn, bằng, vi diệu và không vi diệu.

Tôn giả Chơn-ca-chiên-diên lại hỏi thêm:

- Thưa Tôn giả A-na-luật-đà, các vị Quang thiên sanh ở một chỗ, do nhân gì, duyên gì mà biết được có sự hơn, bằng, vi diệu, không vi diệu?

Tôn giả A-na-luật-đà đáp:

- Này Hiền giả Chơn-ca-chiên-diên, nếu có Sa-môn, Phạm chí ở chỗ vô sự, hoặc đến gốc cây, chỗ an tịnh, thanh nhàn, y cứ vào một cây, ý giải, suy tưởng về ánh sáng, thành tựu an trú; tâm suy tưởng về ánh sáng cực thịnh, với giới hạn bằng chừng đó, tâm giải thoát không vượt hơn chỗ đó. Nếu vị ấy không y cứ vào một cây thì hoặc y cứ vào hai, ba cây, ý giải, suy tưởng về ánh sáng, thành tựu an trú; tâm suy tưởng ánh sáng cực thịnh, với giới hạn bằng chừng đó, tâm giải thoát không vượt hơn chỗ đó. Này Hiền giả Chơn-ca-chiên-diên, giữa hai tâm giải thoát này, giải thoát nào là trên, là hơn, là vi diệu, là tối cao?

Tôn giả Chơn-ca-chiên-diên đáp:

Này Tôn giả A-na-luật-đà, nếu có Sa-môn, Phạm chí không y cứ vào một cây nhưng y cứ vào hai, ba cây, ý giải và suy tưởng về ánh sáng, thành tựu an trú; tâm suy tưởng về ánh sáng cực thịnh, với giới hạn bằng chừng đó, tâm giải thoát không vượt hơn chỗ đó. Này Tôn giả A-na-luật-đà, trong hai loại giải thoát, giải thoát này là trên, là hơn, là vi diệu, là tối cao.

Tôn giả A-na-luật-đà lại hỏi:

- Này Hiền giả Chơn-ca-chiên-diên, nếu không y cứ hai, ba cây thì hoặc y cứ vào một rừng; nếu không y cứ vào một rừng thì hoặc y cứ vào hai, ba rừng; nếu không y cứ vào hai, ba, ba rừng thì hoặc y cứ vào một thôn; nếu không y cứ vào một thôn thì y cứ vào hai, ba thôn; nếu không y cứ vào hai, ba thôn thì hoặc y cứ vào một nước; nếu không y cứ vào một nước thì y cứ vào hai, ba nước; nếu không y cứ vào hai, ba nước thì hoặc y cứ vào đại địa này cho đến đại hải, ý giải, suy tưởng về ánh sáng, thành tựu an trú; tâm suy tưởng về ánh sáng cực thịnh, với giới hạn bằng chừng đó, tâm giải thoát không vượt hơn chỗ đó. Này Hiền giả Chơn-ca-chiên-diên, trong hai giải thoát đó, giải thoát nào là trên, là hơn, là vi diệu, là tối cao?

Tôn giả Chơn-ca-chiên-diên đáp:

- Này Tôn giả A-na-luật-đà, nếu có Sa-môn, Phạm chí không y cứ vào hai, ba cây nhưng y cứ vào một rừng; nếu không y cứ vào một rừng thì y cứ vào một thôn; nếu không y cứ vào một thôn thì y cứ vào một nước; nếu không y cứ vào một nước thì y cứ vào hai, ba nước; nếu không y cứ vào hai, ba nước thì hoặc y cứ vào đại địa này cho đến đại hải, ý giải suy tưởng về ánh sáng, thành tựu an trú; tâm suy tưởng về ánh sáng cực thịnh, với giới hạn bằng chừng đó, tâm giải thoát không vượt hơn chỗ đó. Này Tôn giả A-na-luật-đà, trong hai loại giải thoát, giải thoát này là trên, là hơn, là vi diệu, là tối thắng.

Tôn giả A-na-luật-đà bảo:

- Này Hiền giả  Chơn-ca-chiên-diên, do nhân ấy, duyên ấy, vị Quang thiên kia sanh ở một chỗ, biết có hơn, bằng, vi diệu và không vi diệu. Vì sao? Bởi vì do tâm người có hơn, có bằng nên sự tu có tinh, có thô. Do sự tu có tinh, có thô nên được làm người thì có hơn, có bằng. Này Hiền giả Chơn-ca-chiên-diên, đức Thế Tôn cũng nói như vậy, loài người có hơn, có bằng nhau.

Tôn giả Chơn-ca-chiên-diên lại hỏi:

- Này Tôn giả A-na-luật-đà, vị Tịnh Quang thiên kia sanh ở một chỗ, có thể biết có sự hơn, bằng, vi diệu và không vi diệu chăng?

Tôn giả A-na-luật-đà đáp:

- Này Hiền giả Chơn-ca-chiên-diên, có thể nói rằng Tịnh Quang thiên kia sanh tại một chỗ, biết có sự hơn, bằng, vi diệu và không vi diệu.

Tôn giả Chơn-ca-chiên-diên lại hỏi:

- Này Tôn giả A-na-luật-đà, vị Tịnh Quang thiên kia sanh tại một chỗ, vì nhân duyên gì biết có sự hơn, bằng, vi diệu, không vi diệu?

- Này Hiền giả Chơn-ca-chiên-diên, nếu có Sa-môn, Phạm chí ở chỗ vô sự, hoặc đến dưới gốc cây, chỗ an tịnh, thanh nhàn, ý giải về Tịnh Quang thiên, biến mãn, thành tựu an trú, vị ấy đối với điều này nhất định không tu, không tập, không rộng lớn, không thành tựu. Vị ấy sau đó thân hoại mạng chung, sanh lên Tịnh Quang thiên, sanh rồi không được an nghỉ cùng tột, không được tịch tịnh cùng tột, cũng không được tuổi thọ cùng tột. Này Hiền giả Chơn-ca-chiêndiên, ví như hoa sen xanh, hồng, đỏ, trắng sanh và lớn đều ở dưới nước; khi ấy, rễ, cọng, lá, hoa, tất cả đều bị thấm nước, ngập nước không gì là không bị thấm nước. Này Hiền giả Chơn-ca-chiên-diên, cũng như vậy, nếu có Sa-môn Phạm chí, ở chỗ vô sự, hoặc đến dưới cây, nơi an tĩnh, không nhàn, ý giải về Tịnh Quang thiên, biến mãn, thành tựu an trú. Với sự này, vị ấy nhất định không tu, không tập, không rộng lớn, không thành tựu cùng tột. Vị ấy thân hoại mạng chung, sanh lên Tịnh Quang thiên, sanh rồi không được an nghỉ, không được tịch tịnh và không được tuổi thọ cùng tột.

Này Hiền giả Chơn-ca-chiên-diên, lại có Sa-môn, Phạm chí ý giải về Tịnh Quang thiên, biến mãn, thành tựu an trú. Với sự này, vị ấy nhất định nhiều lần tu tập, nhiều lần làm rộng lớn, thành tựu cùng tột. Vị ấy thân hoại mạng chung, sanh lên Tịnh Quang thiên, sau khi sanh được an nghỉ cuối cùng được tịch tịnh cùng tột, cũng được tuổi thọ cùng tột. Này Hiền giả Chơn-ca-chiên-diên, ví như hoa sen xanh, hồng, đỏ, trắng sanh dưới nước, lớn dưới nước, vượt lên trên nước, nước không thể thấm nhập được. Này Hiền giả Chơn-ca-chiên-diên, cũng như vậy, nếu có Sa-môn, Phạm chí ở chỗ vô sự, hoặc đến dưới cây, nơi an tĩnh, thanh nhàn, ý giải về Tịnh Quang thiên, biến mãn, thành tựu an trú. Với sự này, vị ấy nhất định không tu, không tập, không rộng lớn, không thành tựu cùng tột. Về sau, vị ấy thân hoại mạng chung, sanh lên Tịnh Quang thiên, sanh rồi, không được an nghỉ, không được tịch tịnh, không được tuổi thọ cùng tột. Này Hiền giả Chơn-ca-chiên-diên, lại có Sa-môn, Phạm chí ý giải về Tịnh Quang thiên, biến mãn, thành tựu an trú. Với sự này, vị ấy nhất định nhiều lần tu, nhiều lần tập, nhiều lần làm rộng lớn, thành tựu cùng tột. Về sau, vị ấy thân hoại mạng chung, sanh lên Tịnh Quang thiên, sau khi sanh, được an nghỉ cùng tột, được tịch tịnh cùng tột, cũng được tuổi thọ cùng tột.

Này Hiền giả Chơn-ca-chiên-diên, do nhân ấy, duyên ấy, chư thiên cõi Tịnh Quang thiên ấy sanh ở một chỗ, biết có sự hơn, bằng, vi diệu, không vi diệu. Vì sao? Do lòng người có hơn, có bằng nên sự tu có tinh, có thô. Do sự tu có tinh, có thô nên được làm người thì có hơn, có bằng. Này Hiền giả Chơn-ca-chiêndiên, đức Thế Tôn cũng nói như vậy, loài người có hơn, có bằng nhau.

Tôn giả Chơn-ca-chiên-diên lại hỏi:

- Này Tôn giả A-na-luật-đà, chư thiên cõi Biến Tịnh Quang thiên sanh ở một chỗ, biết có sự hơn, bằng, vi diệu, không vi diệu chăng?

Tôn giả A-na-luật-đà đáp:

- Này Hiền giả Chơn-ca-chiên-diên, có thể nói rằng chư thiên ở cõi Biến Tịnh Quang thiên sanh ở một chỗ, biết có sự hơn, bằng, vi diệu, không vi diệu.

Tôn giả Chơn-ca-chiên-diên lại hỏi:

- Này Tôn giả, chư thiên cõi Biến Tịnh Quang thiên sanh tại một chỗ, do nhân gì, duyên gì, biết có sự hơn, bằng, vi diệu, không vi diệu?

Tôn giả A-na-luật-đà đáp:

- Này Hiền giả Chơn-ca-chiên-diên, nếu có Sa-môn, Phạm chí ở chỗ vô sự, hoặc đến dưới cây, chỗ an tịnh, thanh nhàn, ý giải về Biến Tịnh Quang thiên, biến mãn, thành tựu an trú; vị ấy không đình chỉ được thụy miên, không chấm dứt trạo hối một cách khéo léo. Về sau, vị ấy thân hoại mạng chung, sanh lên Biến Tịnh Quang thiên. Vị ấy sanh rồi, ánh sáng không trong sáng tối đa. Này Hiền giả Chơn-ca-chiên-diên, ví như đèn cháy là nhờ nơi dầu và tim, nếu dầu có cặn, tim lại không sạch, do đó, ánh sáng của đèn phát ra không sáng tỏ. Này Hiền giả Chơn-ca-chiên-diên, cũng vậy, nếu có Sa-môn, Phạm chí ở chỗ vô sự hoặc đến dưới cây, chỗ an tịnh, thanh nhàn, ý giải về Biến Tịnh Quang thiên, biến mãn, thành tựu an trú; vị ấy không đình chỉ được thụy miên, không khéo léo chấm dứt trạo hối. Khi thân hoại mạng chung, vị ấy sanh lên Biến Tịnh Quang thiên, sanh rồi, ánh sáng không trong sáng cùng tột.

Này Hiền giả Chơn-ca-chiên-diên, lại có Sa-môn, Phạm chí ở chỗ vô sự, hoặc đến dưới cây, chỗ an tịnh, thanh nhàn, ý giải về Biến Tịnh Quang thiên được biến mãn, thành tựu an trú. Vị ấy đình chỉ được thụy miên, khéo léo chấm dứt trạo hối. Khi thân hoại mạng chung, vị ấy sanh lên Biến Tịnh Quang thiên. Vị ấy sanh rồi, ánh sáng cực kỳ sáng tỏ. Này Hiền giả Chơn-ca-chiên-diên, cũng như cây đèn do dầu và tim, nếu dầu không cặn và tim rất sạch thì nhờ đó ánh đèn phát ra rất trong sáng. Này Hiền giả Chơn-ca-chiên-diên, cũng vậy, nếu có Sa-môn, Phạm chí ở chỗ vô sự, hoặc đến dưới cây, chỗ không tịnh, an nhàn, ý giải về Biến Tịnh Quang thiên được biến mãn, thành tựu an trú; vị ấy rốt ráo đình chỉ được thụy miên, khéo léo chấm dứt trạo hối, thân hoại mạng chung sanh lên Biến Tịnh Quang thiên. Vị ấy sanh rồi, ánh sáng cực kỳ sáng tỏ.

Này Hiền giả Chơn-ca-chiên-diên, do nhân ấy, duyên ấy, chư thiên cõi Biến Tịnh Quang thiên sanh ở một chỗ, biết có sự hơn, bằng, vi diệu, không vi diệu. Vì sao? Do lòng người có hơn, có bằng nên sự tu có tinh, có thô. Do tu có tinh, có thô nên khi được làm người thì có hơn, có bằng. Này Hiền giả Chơn-cachiên-diên, đức Thế Tôn cũng nói như vậy, loài người có hơn, có bằng nhau.

Bấy giờ, Tôn giả Chơn-ca-chiên-diên khen Tiên-dư tài chủ rằng:

-  Lành thay, lành thay, tài chủ! Ông đã làm cho chúng tôi được nhiều lợi ích. Vì sao? Vì trước hết ông hỏi Tôn giả A-na-luật-đà về việc có cõi trời thù thắng mà chúng tôi chưa từng nghe Tôn giả A-na-luật-đà nói về nghĩa như vậy: Nghĩa là các cõi trời kia, có chư thiên đó. Chư thiên như vậy, các cõi trời như vậy.

Lúc ấy, Tôn giả A-na-luật-đà bảo:

- Này Hiền giả Chơn-ca-chiên-diên, có nhiều cõi trời kia tức mặt trời và mặt trăng này; như vậy, có đại như ý túc, có đại oai đức, có đại phước hựu, có đại oai thần. Vì ánh sáng không kịp ánh sáng, những vị kia cùng ta tụ họp để ủy lạo nhau. Có những điều để luận thuyết, có những điều để đối đáp nhưng ta không nói như rằng: “Cõi trời kia, có cõi trời kia như vậy...”

Khi đó, Tiên-dư tài chủ biết Tôn giả A-na-luật-đà đã nói xong, liền từ chỗ ngồi dứng dậy, tự tay đi lấy nước rửa, dùng các món ăn hết sức trong sạch, tốt tươi, đầy đủ các loại cứng, loại mềm, tự tay săn sóc thức ăn, rót nước, làm cho ăn uống no đủ. Ăn xong dọn dẹp đồ dùng, đưa nước rửa tay rồi tài chủ lấy một cái ghế nhỏ, ngồi một bên nghe pháp. Tiên-dư tài chủ ngồi xong, Tôn giả A-naluật-đà thuyết pháp cho tài chủ nghe, khuyến phát khát ngưỡng, thành tựu hoan hỷ; dùng vô lượng phương tiện thuyết pháp cho tài chủ nghe, khuyến phát khát ngưỡng, thành tựu hoan hỷ rồi, Tôn giả từ chỗ ngồi đứng lên ra về.

Tôn giả A-na-luật-đà thuyết giảng như vậy, Tiên-dư tài chủ và các Tỳ-kheo sau khi nghe xong, hoan hỷ phụng hành.

 

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.