Tam tạng Thánh điển PGVN 18 » Tam tạng Phật giáo Bộ phái 02 »
Dịch tiếng Việt: VIỆN CAO ĐẲNG PHẬT HỌC HẢI ĐỨC - NHA TRANG
Hiệu đính: Hòa Thượng THÍCH THIỆN SIÊU
Tôi nghe như vầy:
Một thời, đức Phật du hóa tại Sa-kê-đế, trong rừng Thanh Lâm.
Bấy giờ, ở Sa-kê-đế có ba thiện nam tử là Tôn giả A-na-luật-đà, Tôn giả Nan-đề và Tôn giả Kim-tỳ-la, đều là thiếu niên, mới xuất gia học đạo, cùng đến nhập Chánh pháp này không lâu.
Lúc ấy, đức Thế Tôn hỏi các Tỳ-kheo:
- Ba thiện nam tử này đều là niên thiếu, mới xuất gia học đạo, cùng đến nhập Chánh pháp này không lâu; ba thiện nam tử ấy có hoan lạc ở trong Pháp, Luật chân chánh này, thực hành Phạm hạnh chăng?
Khi đó, các vị Tỳ-kheo im lặng, không trả lời.
Đức Thế Tôn lại ba lần hỏi các Tỳ-kheo:
- Ba thiện nam tử đều là thiếu niên, mới xuất gia học đạo, cùng đến nhập Chánh pháp này không lâu; ba vị ấy có hoan lạc ở trong Pháp, Luật chân chánh này, thực hành Phạm hạnh chăng?
Khi ấy, các Tỳ-kheo cũng ba lần im lặng, không đáp.
Thế rồi, đức Thế Tôn hỏi thẳng ba thiện nam tử ấy, Ngài nói với Tôn giả A-na-luật-đà rằng:
- Này các thầy, ba thiện nam tử đều ở tuổi niên thiếu, mới xuất gia học đạo, cùng đến nhập Chánh pháp không lâu. Này A-na-luật-đà, các thầy có hoan lạc ở trong Pháp, Luật chân chánh này và thực hành Phạm hạnh chăng?
Tôn giả A-na-luật-đà thưa:
- Bạch đức Thế Tôn, quả thật như vậy! Chúng con hoan lạc ở trong Chánh pháp này và tu hành Phạm hạnh.
Đức Thế Tôn lại hỏi:
- Này A-na-luật-đà, các thầy lúc còn nhỏ, là những đồng tử ấu thơ, trong trắng, tóc đen, thân thể thạnh tráng, hoan lạc trong du hí, hoan lạc trong tắm gội, săn sóc nâng niu thân thể. Về sau, bà con thân thích và cha mẹ đều cùng lưu luyến, thương yêu, khóc lóc thảm thiết, không muốn cho các thầy xuất gia học đạo. Các thầy đã quyết chí cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà-sa, chí tín, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất gia học đạo. Này A-na-luật-đà, các thầy không phải vì sợ vua chúa mà xuất gia học đạo, không phải vì sợ giặc cướp, không phải vì sợ nợ nần, không phải vì sợ khủng bố, không phải vì sợ bần cùng, cũng không phải vì sợ không sống được mà xuất gia học đạo, mà chỉ vì nhàm chán sanh, già, bệnh, chết, khóc lóc, sầu khổ, hoặc vì muốn đạt đến chỗ dứt tận của khối khổ đau to lớn nên xuất gia học đạo. Này A-na-luật-đà, các thầy không vì những tâm niệm như vậy mà xuất gia học đạo chăng?
Tôn giả A-na-luật-đà thưa:
- Bạch đức Thế Tôn, quả thật như vậy!
- Này A-na-luật-đà, nếu một thiện nam tử nào, với tâm niệm như thế mà xuất gia học đạo, nhưng có biết được do đâu mà chứng đắc vô lượng thiện pháp chăng?
Tôn giả A-na-luật-đà thưa:
- Bạch đức Thế Tôn, Thế Tôn là gốc của pháp, là chủ tể của pháp, pháp do Thế Tôn, mong đức Thế Tôn giảng cho! Sau khi đã nghe, chúng con sẽ biết được nghĩa một cách rộng rãi.
Đức Phật liền bảo:
- Này A-na-luật-đà, các thầy hãy lắng nghe, khéo tư duy và ghi nhớ, Ta sẽ phân biệt nghĩa ấy cho các thầy!
Các Tôn giả A-na-luật-đà, Tôn giả Nan-đề, Tôn giả Kim-tỳ-la vâng lời, lắng nghe.
Đức Thế Tôn dạy:
- Này A-na-luật-đà, nếu ai bị dục ngăn che, bị ác pháp trói buộc thì không đạt được xả lạc và vô thượng tịch tĩnh. Tâm của vị ấy sanh ra tham lam, sân nhuế, thụy miên; tâm không hoan lạc, thân uể oải, ăn nhiều, lòng ưu sầu. Tỳ-kheo ấy không kham nhẫn được đói, khát, lạnh, nóng, muỗi mòng, ruồi nhặng, gió nắng bức bách; nghe tiếng thô ác hay bị đánh đập cũng không thể kham nhẫn được; thân mắc phải các bệnh tật rất thống khổ, đến mức chết được và gặp những cảnh ngộ không vừa lòng đều không thể chịu đựng được. Vì sao? Vì bị dục ngăn che, bị ác pháp trói buộc, không đạt được xả lạc và vô thượng tịch tĩnh. Trái lại, nếu người ly dục, không bị ác pháp trói buộc thì chắc chắn đạt đến xả lạc và vô thượng tịch tĩnh. Tâm vị ấy không sanh tham lam, sân nhuế, thụy miên; tâm chẳng sanh ra không hoan lạc; thân không uể oải, cũng không ăn nhiều, lòng không sầu muộn. Tỳ-kheo ấy kham nhẫn được đói, khát, lạnh, nóng, muỗi mòng, ruồi nhặng, gió, nắng bức bách; nghe tiếng thô ác hay bị đánh đập cũng kham nhẫn được; thân mắc những bệnh tật rất thống khổ, đến mức chết được, hay gặp những cảnh ngộ không thể vừa lòng đều kham nhẫn được. Vì sao? Vì không bị dục ngăn che, không bị ác pháp trói buộc, lại đạt đến xả lạc, vô thượng tịch tĩnh.
Đức Thế Tôn hỏi:
Này A-na-luật-đà, Như Lai vì những thiện lợi nào mà có cái phải đoạn trừ, có cái phải thọ dụng, có cái phải kham nhẫn, hoặc có cái phải tĩnh chỉ, có cái phải phế bỏ?
A-na-luật-đà bạch đức Thế Tôn:
- Đức Thế Tôn là gốc của pháp, là chủ tể của pháp, pháp do Thế Tôn, mong Thế Tôn giảng giải cho! Sau khi nghe xong, chúng con sẽ biết được những thiện lợi ấy một cách rộng rãi.
Đức Phật lại dạy:
- Này A-na-luật-đà, các thầy hãy lắng nghe, khéo tư duy, ghi nhớ, Ta sẽ phân biệt những thiện lợi ấy cho các thầy!
A-na-luật-đà, Nan-đề, Kim-tỳ-la vâng lời lắng nghe.
Đức Thế Tôn dạy:
- Này A-na-luật-đà, các lậu hoặc ô nhiễm là gốc của sự hữu trong tương lai, là sự phiền nhiệt, là nhân của khổ báo, của sanh, già, bệnh, chết. Như Lai không phải vì không diệt tận, không phải vì không biến tri, mà có cái phải đoạn trừ, có cái phải thọ dụng, có cái phải kham nhẫn, có cái phải tĩnh chỉ, có cái phải phế bỏ. Này A-na-luật-đà, Như Lai chỉ vì nhân nơi thân này, nhân nơi lục xứ, nhân nơi thọ mạng, mà có cái phải đoạn trừ, có cái phải thọ dụng, có cái phải kham nhẫn, có cái phải tĩnh chỉ, có cái phải phế bỏ. Này A-na-luật-đà, Như Lai vì những thiện lợi này mà có cái phải đoạn trừ, có cái phải thọ dụng, có cái phải kham nhẫn, có cái phải tĩnh chỉ, có cái phải phế bỏ.
Đức Thế Tôn hỏi:
- Này A-na-luật-đà, Như Lai vì những thiện lợi nào mà sống nơi rừng vắng, trong núi sâu, dưới gốc cây, thích ở non cao, vắng bặt tiếng ồn, xa lánh, không có sự dữ, không có bóng người, tùy thuận tĩnh tọa như thế?
Tôn giả A-na-luật-đà đáp:
- Bạch đức Thế Tôn, Thế Tôn là gốc của pháp, Thế Tôn là chủ tể của pháp, pháp do Thế Tôn, mong Thế Tôn giảng giải cho! Sau khi nghe xong, chúng con sẽ hiểu được ý nghĩa một cách rộng rãi.
Đức Phật dạy:
- Này A-na-luật-đà, các thầy hãy lắng nghe, khéo tư duy và ghi nhớ, Ta sẽ phân biệt những ý nghĩa ấy cho các thầy.
A-na-luật-đà, Nan-đề, Kim-tỳ-la vâng lời lắng nghe.
Đức Thế Tôn dạy:
- Này A-na-luật-đà, không phải vì muốn đạt đến những gì chưa đạt đến, vì muốn thu hoạch những gì chưa thu hoạch, vì muốn chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ mà Như Lai sống nơi rừng vắng, trong núi sâu, dưới gốc cây, thích ở non cao, vắng bặt tiếng tăm, xa lánh, không có sự dữ, không có bóng người, tùy thuận tĩnh tọa. Này A-na-luật-đà, Như Lai chỉ vì hai điều ý nghĩa sau đây nên mới sống nơi rừng vắng, trong núi sâu, dưới gốc cây, thích ở non cao, vắng bặt tiếng tăm, xa lánh, không có sự dữ, không có bóng người, tùy thuận tĩnh tọa.
Một là vì sự an lạc ngay trong đời hiện tại này và hai là vì thương xót chúng sanh đời sau. Đời sau hoặc có chúng sanh học theo Như Lai, sống nơi rừng vắng, trong núi sâu, dưới gốc cây, thích ở non cao, vắng bặt tiếng tăm, xa lánh, không có sự dữ, không có bóng người, tùy thuận tĩnh tọa. Này A-na-luật-đà, vì những ý nghĩa ấy mà Như Lai sống nơi rừng vắng, trong núi sâu, dưới gốc cây, thích ở non cao, vắng bặt tiếng tăm, xa lánh, không có sự dữ, không có bóng người, tùy thuận tĩnh tọa.
Đức Thế Tôn hỏi:
- Này A-na-luật-đà, vì những ý nghĩa nào mà khi các đệ tử lâm chung, Như Lai ghi nhận vị này sẽ sanh chỗ này, vị kia sẽ sanh chỗ kia?
Tôn giả A-na-luật-đà bạch đức Thế Tôn:
- Đức Thế Tôn là gốc của pháp, Thế Tôn là chủ tể của pháp, pháp do Thế Tôn, mong đức Thế Tôn giảng cho! Sau khi nghe xong, chúng con sẽ biết những ý nghĩa một cách rộng rãi.
Đức Phật dạy:
- Này A-na-luật-đà, các thầy hãy lắng nghe, khéo tư duy và ghi nhớ, Ta sẽ phân biệt những ý nghĩa ấy cho các thầy!
A-na-luật-đà, Nan-đề, Kim-tỳ-la vâng lời lắng nghe.
Đức Thế Tôn dạy:
- Này A-na-luật-đà, không phải vì thú hướng, không phải vì con người mà nói, cũng chẳng phải vì lừa gạt người, cũng chẳng phải vì muốn làm vui lòng người mà khi đệ tử lâm chung, Như Lai ghi nhận vị này sẽ sanh chỗ này, vị kia sẽ sanh chỗ kia. Này A-na-luật-đà, chỉ vì những thanh tín thiện nam, thanh tín thiện nữ với tín tâm nhiệt thành, với mong ước cao độ, với vui mừng cùng cực, khi đã nghe Pháp, Luật chân chánh này; hoặc tâm nguyện tu tập theo như vậy, như vậy, cho nên lúc đệ tử lâm chung, Như Lai ghi nhận vị này sẽ sanh chỗ này, vị kia sẽ sanh chỗ kia. Nếu Tỳ-kheo nào nghe Tôn giả ấy lâm chung ở nơi ấy, được Phật ghi nhận đã đắc Cứu cánh trí, biết như thật rằng: “Sự sanh đã dứt, Phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa”; hoặc tận mắt trông thấy, hoặc nhiều lần nghe người khác kể lại rằng: “Tôn giả ấy có tín tâm như vậy, trì giới như vậy, học rộng như vậy, bố thí như vậy, trí tuệ như vậy.” Tỳ-kheo kia nghe xong, nhớ rằng: “Tôn giả ấy có tín tâm như vậy, trì giới như vậy, học rộng như vậy, bố thí như vậy, trí tuệ như vậy.”
- Sau khi nghe Pháp, Luật chân chánh này, Tỳ-kheo kia có thể tâm nguyện tu tập theo như vậy, như vậy. Này A-na-luật-đà, Tỳ-kheo đó chắc chắn được phần nào sống trong sự an lạc.
Này A-na-luật-đà, lại nữa, nếu Tỳ-kheo nào nghe Tôn giả ấy lâm chung ở chỗ ấy, được đức Phật ghi nhận đã dứt sạch năm hạ phần kiết sử, sanh vào nơi kia mà nhập Niết-bàn, chứng đắc pháp bất thối, không còn trở lại thế gian này nữa; hoặc chính mắt trông thấy, hoặc nhiều lần nghe người khác kể lại rằng: “Tôn giả ấy có tín tâm như vậy, trì giới như vậy, học rộng như vậy, bố thí như vậy, trí tuệ như vậy.” Nghe xong, Tỳ-kheo kia nhớ rằng: “Tôn giả ấy có tín tâm như vậy, trì giới như vậy, học rộng như vậy, bố thí như vậy, trí tuệ như vậy.” Sau khi nghe Pháp, Luật chân chánh này, Tỳ-kheo đó tâm nguyện tu tập theo như vậy, như vậy. Này A-na-luật-đà, Tỳ-kheo đó chắc chắn được phần nào sống trong sự an lạc.
Lại nữa, này A-na-luật-đà, Tỳ-kheo nào nghe rằng Tôn giả ấy lâm chung ở chỗ ấy, được Phật ghi nhận đã dứt sạch ba kiết sử, đã làm mỏng dâm, nộ, si, chỉ còn một lần sanh ra ở cõi trời và cõi người; sau một lần sanh ra đó thì đạt đến chỗ dứt tận sự khổ; hoặc tận mắt trông thấy, hoặc nhiều lần nghe người khác kể lại rằng: “Tôn giả ấy có tín tâm như vậy, trì giới như vậy, học rộng như vậy, bố thí như vậy, trí tuệ như vậy.” Sau khi nghe xong, Tỳ-kheo kia nhớ rằng: “Tôn giả ấy có tín tâm như vậy, trì giới như vậy, học rộng như vậy, bố thí như vậy, trí tuệ như vậy.” Nghe Pháp, Luật chân chánh này rồi, Tỳ-kheo đó có thể tâm nguyện tu tập theo như vậy, như vậy. Này A-na-luật-đà, như vậy, Tỳ-kheo đó chắc chắn được phần nào sống trong sự an lạc.
Lại nữa, này A-na-luật-đà, Tỳ-kheo nào nghe Tôn giả ấy lâm chung ở nơi ấy, được Phật ghi nhận đã dứt sạch ba kiết sử, đắc Tu-đà-hoàn, không còn đọa ác pháp, nhất định sẽ đạt đến chánh giác, nhiều lắm là bảy lần thọ sanh; sau bảy lần qua lại nhân gian, thiên thượng thì đạt đến tận cùng sự khổ; hoặc tận mắt trông thấy, hoặc nhiều lần nghe người khác kể lại rằng: “Tôn giả ấy có tín tâm như vậy, trì giới như vậy, học rộng như vậy, bố thí như vậy, trí tuệ như vậy.” Nghe xong, Tỳ-kheo đó nhớ rằng: “Tôn giả ấy có tín tâm như vậy, trì giới như vậy, bố thí như vậy, học rộng như vậy, trí tuệ như vậy.” Sau khi nghe Pháp, Luật chân chánh này, Tỳ-kheo đó có thể tâm nguyện tu tập như vậy, như vậy. Này A-na-luật-đà, như vậy, Tỳ-kheo đó chắc chắn được phần nào sống trong sự an lạc.
Này A-na-luật-đà, nếu Tỳ-kheo-ni nào nghe rằng Tỳ-kheo-ni ấy được Phật ghi nhận đã đắc Cứu cánh trí, biết như thật rằng: “Sự sanh đã dứt, Phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa.” Hoặc tận mắt trông thấy Tỳ-kheo-ni ấy, hoặc nhiều lần nghe người khác kể lại rằng: “Tỳ-kheo-ni ấy có tín tâm như vậy, trì giới như vậy, học rộng như vậy, bố thí như vậy, trí tuệ như vậy.” Nghe xong, nhớ rằng: “Tỳ-kheo-ni ấy có tín tâm như vậy, trì giới như vậy, học rộng như vậy, bố thí như vậy, trí tuệ như vậy.” Sau khi nghe Pháp, Luật chân chánh này, Tỳ-kheo-ni kia có thể tâm nguyện tu tập theo như vậy, như vậy. Này A-na-luật-đà, như vậy, Tỳ-kheo-ni đó chắc chắn được phần nào sống trong sự an lạc.
Lại nữa, này A-na-luật-đà, Tỳ-kheo-ni nào nghe rằng: “Tỳ-kheo-ni ấy lâm chung ở nơi ấy, được đức Thế Tôn ghi nhận đã dứt sạch năm hạ phần kiết sử, sanh vào nơi kia mà nhập Niết-bàn, đắc pháp bất thối, không còn trở lại cõi này nữa.” Hoặc tận mắt trông thấy, hoặc nhiều lần nghe người khác kể lại rằng: “Tỳ-kheo-ni ấy có tín tâm như vậy, trì giới như vậy, học rộng như vậy, bố thí như vậy, trí tuệ như vậy.” Nghe xong, Tỳ-kheo-ni kia nhớ rằng: “Tỳ-kheo-ni ấy có tín tâm như vậy, trì giới như vậy, học rộng như vậy, bố thí như vậy, trí tuệ như vậy.” Sau khi nghe Pháp, Luật chân chánh này, Tỳ-kheo-ni đó có thể tâm nguyện tu tập theo như vậy, như vậy. Này A-na-luật-đà, như vậy, Tỳ-kheo-ni đó chắc chắn được phần nào sống trong sự an lạc.
Lại nữa, này A-na-luật-đà, Tỳ-kheo-ni nào nghe Tỳ-kheo-ni ấy lâm chung ở nơi ấy, được Phật ghi nhận rằng đã dứt sạch ba kiết sử, đã làm mỏng dâm, nộ, si, chỉ còn một lần qua lại thiên thượng, nhân gian; sau khi một lần qua lại ấy thì đạt đến chỗ dứt tận sự khổ; hoặc tận mắt trông thấy, hoặc nhiều lần nghe người khác kể lại rằng: “Tỳ-kheo-ni ấy có tín tâm như vậy, trì giới như vậy, học rộng như vậy, bố thí như vậy, trí tuệ như vậy.” Nghe xong, Tỳ-kheo-ni kia nhớ rằng: “Tỳ-kheo-ni ấy có tín tâm như vậy, trì giới như vậy, học rộng như vậy, bố thí như vậy, trí tuệ như vậy.” Sau khi nghe Pháp, Luật chân chánh này, vị ấy có thể tâm nguyện tu tập theo như vậy, như vậy. Này A-na-luật-đà, như vậy, Tỳ-kheoni đó chắc chắn được phần nào sống trong sự an lạc.
Lại nữa, này A-na-luật-đà, Tỳ-kheo-ni nào nghe Tỳ-kheo-ni ấy lâm chung ở nơi ấy, được Phật ghi nhận đã dứt sạch ba kiết sử, đắc Tu-đà-hoàn, không còn đọa vào ác pháp, nhất định sẽ đạt đến chánh giác, nhiều lắm là bảy lần thọ sanh; sau bảy lần qua lại ở thiên thượng và nhân gian thì đạt đến tận cùng sự khổ; hoặc tận mắt trông thấy, hoặc nhiều lần nghe người khác kể lại rằng: “Tỳ-kheoni ấy có tín tâm như vậy, trì giới như vậy, học rộng như vậy, bố thí như vậy, trí tuệ như vậy.” Nghe xong, Tỳ-kheo-ni kia nhớ rằng: “Tỳ-kheo-ni ấy có tín tâm như vậy, trì giới như vậy, học rộng như vậy, bố thí như vậy, trí tuệ như vậy.” Sau khi nghe Pháp, Luật chân chánh này, Tỳ-kheo-ni kia có thể tâm nguyện tu tập theo như vậy, như vậy. Này A-na-luật-đà, như vậy, Tỳ-kheo-ni kia chắc chắn được phần nào sống trong sự an lạc.
Này A-na-luật-đà, nếu ưu-bà-tắc nào nghe vị ưu-bà-tắc ấy lâm chung ở chỗ ấy, được Phật ghi nhận đã dứt sạch năm hạ phần kiết sử, sanh vào chỗ kia mà nhập Niết-bàn, đắc pháp bất thối, không còn trở lại thế gian này nữa; hoặc tận mất trông thấy, hoặc nhiều lần nghe người khác kể lại rằng: “Ưu-bà-tắc ấy có tín tâm như vậy, trì giới như vậy, học rộng như vậy, bố thí như vậy, trí tuệ như vậy.” Nghe xong, vị ưu-bà-tắc kia nhớ rằng: “Ưu-bà-tắc ấy có tín tâm như vậy, trì giới như vậy, học rộng như vậy, bố thí như vậy, trí tuệ như vậy.” Sau khi nghe Pháp, Luật chân chánh này, vị kia có thể tâm nguyện tu tập theo như vậy, như vậy. Này A-na-luật-đà, như vậy, ưu-bà-tắc kia chắc chắn được phần nào sống trong sự an lạc.
Lại nữa, này A-na-luật-đà, vị ưu-bà-tắc nào nghe ưu-bà-tắc ấy lâm chung ở nơi ấy, được Phật ghi nhận là dứt sạch ba kiết sử, đã làm mỏng dâm, nộ, si, chỉ còn một lần qua lại thiên thượng, nhân gian; sau một lần qua lại ấy, vị ấy đạt đến chỗ dứt tận sự khổ; hoặc tận mắt trông thấy, hoặc nhiều lần nghe người khác kể lại rằng: “Ưu-bà-tắc ấy có tín tâm như vậy, trì giới như vậy, học rộng như vậy, trí tuệ như vậy.” Nghe xong, ưu-bà-tắc kia nhớ rằng: “Vị ưu-bà-tắc ấy có tín tâm như vậy, trì giới như vậy, học rộng như vậy, bố thí như vậy, trí tuệ như vậy.” Sau khi nghe Pháp, Luật chân chánh này, vị đó tâm nguyện tu tập theo như vậy, như vậy. Này A-na-luật-đà, như vậy, ưu-bà-tắc đó chắc chắn được phần nào sống trong sự an lạc.
Lại nữa, này A-na-luật-đà, ưu-bà-tắc nào nghe ưu-bà-tắc ấy lâm chung ở nơi ấy, được Phật ghi nhận là đã dứt sạch ba kiết sử, đắc Tu-đà-hoàn, không còn đọa ác pháp, nhất định sẽ đạt đến chánh giác, nhiều lắm là bảy lần thọ sanh nữa; sau bảy lần qua lại thiên thượng, nhân gian, vị ấy đạt đến dứt tận sự khổ; hoặc tận mất trông thấy, hoặc nhiều lần nghe người khác kể lại rằng: “Ưu-bàtắc ấy có tín tâm như vậy, trì giới như vậy, học rộng như vậy, bố thí như vậy, trí tuệ như vậy.” Nghe xong ưu-bà-tắc kia nhớ rằng: “Ưu-bà-tắc ấy có tín tâm như vậy, trì giới như vậy, học rộng như vậy, bố thí như vậy, trí tuệ như vậy.” Sau khi nghe Pháp, Luật chân chánh này, vị đó có thể tâm nguyện tu tập theo như vậy, như vậy. Này A-na-luật-đà, như vậy, ưu-bà-tắc đó chắc chắn được phần nào sống trong sự an lạc.
Này A-na-luật-đà, nếu ưu-bà-di nào nghe ưu-bà-di ấy lâm chung ở nơi ấy, được Phật ghi nhận là đã dứt sạch năm hạ phần kiết sử, sanh vào nơi kia mà nhập Niết-bàn, đắc pháp bất thối, không còn trở lại thế gian nữa; hoặc tận mắt trông thấy, hoặc nhiều lần nghe người khác kể lại rằng: “Ưu-bà-di ấy có tín tâm như vậy, trì giới như vậy, học rộng như vậy, bố thí như vậy, trí tuệ như vậy.” Nghe xong, ưu-bà-di đó nhớ rằng: “Ưu-bà-di ấy có tín tâm như vậy, học rộng như vậy, bố thí như vậy, trí tuệ như vậy.” Sau khi nghe Pháp, Luật chân chánh này, vị đó có thể tâm nguyện tu tập theo như vậy, như vậy. Này A-na-luật-đà, như vậy, ưu-bà-di đó chắc chắn được phần nào sống trong sự an lạc.
Lại nữa, này A-na-luật-đà, ưu-bà-di nào nghe ưu-bà-di ấy lâm chung ở nơi ấy, được Phật ghi nhận là đã dứt sạch ba kiết sử, làm mỏng dâm, nộ, si, chỉ còn một lần qua lại thiên thượng, nhân gian; sau một lần qua lại ấy thì đạt đến chỗ dứt tận sự khổ; hoặc tận mắt trông thấy, hoặc nhiều lần nghe người khác kể lại rằng: “Ưu-bà-di ấy có tín tâm như vậy, trì giới như vậy, học rộng như vậy, bố thí như vậy, trí tuệ như vậy.” Nghe xong, ưu-bà-di kia nhớ rằng: “Ưu-bà-di ấy có tín tâm như vậy, trì giới như vậy, học rộng như vậy, bố thí như vậy, trí tuệ như vậy.” Sau khi nghe Pháp, Luật chân chánh này, vị đó có thể tâm nguyện tu tập theo như vậy, như vậy. Này A-na-luật-đà, như vậy, ưu-bà-di đó chắc chắn được phần nào sống trong sự an lạc.
Lại nữa, này A-na-luật-đà, ưu-bà-di nào nghe ưu-bà-di ấy lâm chung ở nơi ấy, được Phật ghi nhận là đã dứt sạch ba kiết sử, chứng Tu-đà-hoàn, không còn đọa ác pháp, nhất định sẽ đạt đến chánh giác, nhiều lắm là bảy lần thọ sanh; sau bảy lần qua lại thiên thượng, nhân gian, vị ấy đạt đến chỗ dứt tận sự khổ; hoặc tận mắt trông thấy, hoặc nhiều lần nghe người khác kể lại rằng: “Ưu-bà-di ấy có tín tâm như vậy, trì giới như vậy, học rộng như vậy, bố thí như vậy, trí tuệ như vậy.” Nghe xong, ưu-bà-di đó nhớ rằng: “Ưu-bà-di ấy có tín tâm như vậy, trì giới như vậy, học rộng như vậy, bố thí như vậy, trí tuệ như vậy.” Sau khi nghe Pháp, Luật chân chánh này, vị đó có thể tâm nguyện tu tập theo như vậy, như vậy. Này A-na-luật-đà, như vậy, ưu-bà-di đó chắc chắn được phần nào sống trong sự an lạc.
Này A-na-luật-đà, Như Lai vì những ý nghĩa ấy nên khi đệ tử lâm chung, ghi nhận vị này sẽ sanh vào chỗ này, vị kia sẽ sanh vào chỗ kia.
Đức Phật thuyết như vậy, Tôn giả A-na-luật-đà và các Tỳ-kheo sau khi nghe lời Phật dạy xong, hoan hỷ phụng hành.
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.