Tam tạng Thánh điển PGVN 18 » Tam tạng Phật giáo Bộ phái 02 »
Dịch tiếng Việt: VIỆN CAO ĐẲNG PHẬT HỌC HẢI ĐỨC - NHA TRANG
Hiệu đính: Hòa Thượng THÍCH THIỆN SIÊU
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật du hóa tại Câu-lâu-sấu, ở trong đô ấp Kiếm-ma-sắt-đàmcâu-lâu.
Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
– Dục là vô thường, hư ngụy, giả dối. Đã là pháp giả dối thì huyễn hóa, khi cuống, ngu si. Dù là dục của đời này hay dục của đời sau, dù là sắc của đời này hay sắc của đời sau, tất cả thứ ấy đều là cảnh giới của ma, là miếng mồi của ma. Nhân những thứ ấy mà tâm sanh vô lượng pháp ác, bất thiện, tăng trưởng sân nhuế và đấu tranh...; nghĩa là làm chướng ngại cho sự tu học của Thánh đệ tử.
Đa văn Thánh đệ tử nên quán như vầy: “Thế Tôn nói rằng: ‘Dục là vô thường, hư ngụy, giả dối. Đã là giả dối thì huyễn hóa, khi cuống, ngu si. Dù là dục của đời này hay dục của đời sau, dù là sắc của đời này hay sắc của đời sau, tất cả thứ ấy đều là cảnh giới của ma, là miếng mồi của ma. Nhân những thứ ấy mà tâm sanh vô lượng pháp ác, bất thiện, tăng trưởng sân nhuế và đấu tranh...; nghĩa là làm chướng ngại sự tu học của Thánh đệ tử.’” Rồi vị ấy suy nghĩ như vầy: “Ta có thể chứng đắc đại tâm, thành tựu và an trú, nhiếp phục thế gian, nhiếp trì tâm ấy. Nếu ta chứng đắc đại tâm, thành tựu và an trú, nhiếp phục thế gian, nhiếp trì tâm ấy thì tâm như thế sẽ không sanh vô lượng pháp ác, bất thiện, không tăng trưởng sân nhuế và đấu tranh...; nghĩa là không làm chướng ngại cho sự tu học của Thánh đệ tử.” Vị ấy hành như thế, học như thế, tu tập và phát triển như thế, liền ở nơi xứ mà tâm được thanh tịnh. Sau khi ở nơi xứ mà tâm được thanh tịnh, Tỳ-kheo ấy, hoặc ngay đây mà nhập vào bất động, hoặc do tuệ mà có thắng giải. Về sau, khi thân hoại mạng chung, nhân tâm ý đã có sẵn, vị ấy chắc chắn đạt đến bất động. Đó là trường hợp thứ nhất được gọi là Tịnh bất động đạo.
Lại nữa, đa văn Thánh đệ tử nên quán như thế này: “Nếu có sắc nào thì tất cả những sắc ấy đều là bốn đại và do bốn đại tạo thành. Bốn đại ấy là pháp, vô thường, khổ và hoại diệt.” Vị ấy hành như thế, học như thế, tu tập và phát triển như thế thì ở nơi xứ mà tâm được thanh tịnh. Sau khi ở nơi xứ mà tâm được thanh tịnh, Tỳ-kheo ấy, hoặc ngay đây mà nhập vào bất động, hoặc do tuệ mà có thắng giải. Về sau, khi thân hoại mạng chung, do tâm ý đã có sẵn ấy, chắc chắn đạt đến bất động. Đó là trường hợp thứ hai được gọi Tịnh bất động đạo.
Lại nữa, đa văn Thánh đệ tử nên quán như thế này: “Dù là dục của đời này hay dục của đời sau, dù là sắc của đời này hay sắc của đời sau, dù là dục tưởng của đời này hay dục tưởng của đời sau, dù là sắc tưởng của đời này hay sắc tưởng của đời sau, tất cả tưởng ấy đều là pháp, vô thường, khổ và hoại diệt.” Vị ấy, lúc bấy giờ, chứng đắc bất động tưởng. Vị ấy hành như vậy, học như vậy, tu tập và phát triển như vậy thì ở nơi xứ mà tâm được thanh tịnh. Sau khi ở nơi xứ mà tâm được thanh tịnh, Tỳ-kheo ấy, hoặc ngay đây mà nhập vào bất động, hoặc do tuệ mà có thắng giải. Về sau, khi thân hoại mạng chung, nhân tâm ý đã có sẵn ấy, chắc chắn đạt đến bất động. Đó là trường hợp thứ ba được gọi là Tịnh bất động đạo.
Lại nữa, đa văn Thánh đệ tử nên quán như thế này: “Dù là dục tưởng của đời này hay dục tưởng của đời sau, dù là sắc tưởng của đời này hay sắc tưởng của đời sau, và bất động tưởng, tất cả tưởng ấy đều là pháp, vô thường, khổ và hoại diệt.” Vị ấy, bấy giờ, đắc Vô sở hữu xứ tưởng. Vị ấy hành như vậy, học như vậy, tu tập và phát triển như vậy thì ở nơi xứ mà tâm được thanh tịnh. Sau khi ở nơi xứ mà tâm được thanh tịnh, Tỳ-kheo ấy, hoặc ngay đây mà nhập bất động, hoặc do tuệ mà có thắng giải. Về sau, khi thân hoại mạng chung, nhân tâm ý đã có sẵn ấy chắc chắn đạt đến bất động. Đó là trường hợp thứ nhất được gọi Tịnh vô sở hữu xứ đạo.
Lại nữa, đa văn Thánh đệ tử nên quán như thế này: “Thế gian này là không, ngã là không, ngã sở là không, có cái thường không, có cái hằng không, có cái trường tồn không thì bất biến dịch.” Vị ấy hành như vậy, học như vậy, tu tập và phát triển như vậy thì ở nơi xứ mà tâm được thanh tịnh. Sau khi ở nơi xứ mà tâm được thanh tịnh, Tỳ-kheo ấy, hoặc ngay đây mà nhập Vô sở hữu xứ bất động, hoặc do tuệ mà có thắng giải. Về sau, khi thân hoại mạng chung, nhân tâm ý đã có sẵn ấy, chắc chắn đạt đến Vô sở hữu xứ. Đó là trường hợp thứ hai được gọi là Tịnh vô sở hữu xứ đạo.
Lại nữa, đa văn Thánh đệ tử nên quán như thế này: “Ta không phải được tạo ra bởi cái khác, cũng không phải được tạo ra bởi chính mình.” Vị ấy hành như vậy, học như vậy, tu tập và phát triển như vậy thì ở nơi xứ mà tâm được thanh tịnh. Sau khi ở nơi xứ mà tâm được thanh tịnh, Tỳ-kheo ấy, hoặc ngay đây mà nhập Vô sở hữu xứ, hoặc do tuệ mà có thắng giải. Về sau, khi thân hoại mạng chung, nhân tâm ý đã có sẵn ấy, chắc chắn đạt đến Vô sở hữu xứ. Đó là trường hợp thứ ba được gọi là Tịnh vô sở hữu xứ đạo.
Lại nữa, đa văn Thánh đệ tử nên quán như thế này: “Dù là dục của đời này hay dục của đời sau, dù là sắc của đời này hay sắc của đời sau, dù là dục tưởng của đời này hay dục tưởng của đời sau, dù là sắc tưởng của đời này hay sắc tưởng của đời sau và bất động tưởng, Vô sở hữu xứ tưởng, tất cả tưởng ấy đều là pháp, vô thường, khổ và hoại diệt.” Bấy giờ, vị ấy đắc Vô tưởng. Vị ấy hành như vậy, học như vậy, tu tập phát triển như vậy thì ở nơi xứ mà tâm được thanh tịnh. Sau khi ở nơi xứ mà tâm được thanh tịnh, Tỳ-kheo ấy, hoặc ngay đây mà nhập Vô tưởng, hoặc do tuệ mà có thắng giải. Về sau, khi thân hoại mạng chung, nhân tâm ý đã có sẵn ấy, chắc chắn đạt đến Vô tưởng xứ. Đó là nói về Tịnh vô tưởng đạo.
Bấy giờ, Tôn giả A-nan đang cầm quạt đứng hầu đức Phật. Tôn giả chắp tay hướng về Ngài và bạch rằng:
- Bạch đức Thế Tôn, nếu có Tỳ-kheo nào thực hành vô ngã, vô ngã sở như thế thì ngã sẽ không có, ngã sở sẽ không có, nếu trước đã có thì được xả bỏ hoàn toàn. Bạch đức Thế Tôn, Tỳ-kheo ấy thực hành như thế có chứng đắc cứu cánh Niết-bàn chăng?
Đức Thế Tôn bảo:
- Này A-nan, sự kiện ấy không nhất định. Hoặc có người chứng đắc, hoặc có người không chứng đắc.
Tôn giả A-nan lại thưa:
- Bạch đức Thế Tôn, vì sao Tỳ-kheo ấy thực hành như thế mà không chứng đắc Niết-bàn?
Đức Thế Tôn đáp:
- Này A-nan, nếu Tỳ-kheo nào thực hành vô ngã, vô ngã sở như thế thì ngã sẽ không có, ngã sở sẽ không có, nếu trước đã có liền được xả bỏ hoàn toàn. Nhưng này A-nan, nếu Tỳ-kheo ấy hoan lạc về sự xả bỏ ấy, đắm trước sự xả bỏ ấy, trú vào sự xả bỏ ấy, thì này A-nan, Tỳ-kheo thực hành như thế thì chắc chắn không chứng đắc Niết-bàn.
Tôn giả A-nan bạch:
- Bạch đức Thế Tôn, Tỳ-kheo nếu có chỗ chấp thủ, không đắc Niết-bàn chăng?
Đức Thế Tôn đáp:
- Này A-nan, nếu Tỳ-kheo nào có chỗ chấp thủ thì chắc chắn không đắc Niết-bàn.
Tôn giả A-nan bạch:
- Bạch đức Thế Tôn, Tỳ-kheo ấy chấp thủ những gì?
Đức Thế Tôn đáp:
- Này A-nan, còn sự hữu ở trong hành, đó là Hữu tưởng vô tưởng xứ, bậc nhất trong các hữu mà Tỳ-kheo ấy chấp thủ.
Tôn giả A-nan bạch:
- Bạch đức Thế Tôn, Tỳ-kheo ấy còn chấp thủ vào hành nào khác nữa chăng?
Đức Thế Tôn đáp:
- Này A-nan, đúng như thế, Tỳ-kheo ấy còn chấp thủ vào hành khác nữa.
Tôn giả A-nan bạch:
- Bạch đức Thế Tôn, Tỳ-kheo thực hành như thế nào thì chắc chắn đắc Niết-bàn?
Đức Thế Tôn đáp:
- Này A-nan, nếu Tỳ-kheo nào thực hành vô ngã, vô ngã sở như thế thì ngã sẽ không có, ngã sở sẽ không có, nếu trước đã có thì được xả bỏ hoàn toàn. Và này A-nan, nếu Tỳ-kheo ấy không hoan lạc vì sự xả bỏ ấy, không đắm trước sự xả bỏ ấy, không trú vào sự xả bỏ ấy, thì này A-nan, Tỳ-kheo thực hành như thế, chắc chắn chứng đắc Niết-bàn.
Tôn giả A-nan bạch:
- Bạch đức Thế Tôn, Tỳ-kheo, nếu không chấp thủ vào đâu cả thì chắc chắn đắc Niết-bàn chăng?
Đức Thế Tôn đáp:
- Này A-nan, nếu Tỳ-kheo nào không chấp thủ vào đâu cả thì chắc chắn đắc Niết-bàn.
Bấy giờ, Tôn giả A-nan chắp tay hướng về đức Phật và bạch:
- Bạch đức Thế Tôn, Thế Tôn đã thuyết về Tịnh bất động đạo, đã thuyết về Tịnh vô sở hữu xứ đạo, đã thuyết về Tịnh vô tưởng đạo, đã thuyết về Vô dư Niết-bàn. Bạch đức Thế Tôn, thế nào là sự giải thoát của bậc Thánh?
Đức Thế Tôn đáp:
- Này A-nan, đa văn Thánh đệ tử nên quán như thế này: “Dù là dục của đời này hay dục của đời sau, dù là sắc của đời này hay sắc của đời sau, dù là dục tưởng của đời này hay dục tưởng của đời sau, dù là sắc tưởng của đời này hay sắc tưởng của đời sau, và bất động tưởng, Vô sở hữu xứ tưởng, Vô tưởng tưởng; tất cả các tưởng ấy đều là pháp, vô thường, khổ và hoại diệt; đó là hữu thân, nếu là hữu thân thì đó là sanh, đó là già, đó là bệnh, là chết. Này A-nan, nếu có pháp này thì diệt trừ tất cả, không để lưu dư, không để có trở ngại, như vậy thì không sanh, không già, không bệnh, không chết. Bậc Thánh quán như vậy. Nếu có thì chắc chắn đó là pháp giải thoát. Nếu có Vô dư Niết-bàn thì gọi là Cam lồ. Vị nào quán như vậy, thấy như vậy, chắc chắn đạt được tâm giải thoát dục lậu, tâm giải thoát hữu lậu, vô minh lậu, đã giải thoát liền biết là đã giải thoát, biết như thật rằng: “Sự sanh đã dứt, Phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa.”
Này A-nan, Ta nay đã nói cho thầy nghe về Tịnh bất động đạo, về Tịnh vô sở hữu xứ đạo, về Tịnh vô tướng đạo, về Vô dư Niết-bàn, về sự giải thoát của bậc Thánh. Như bậc Tôn sư, tâm đại bi, đoái tưởng, thương xót, mong cầu phước lợi và thiện ích, cầu an ổn và an lạc cho đệ tử. Những điều ấy, Ta nay đã làm xong, các thầy hãy tự mình làm. Hãy đi đến nơi rừng vắng, đến dưới rừng cây, chỗ yên tĩnh, thanh nhàn, ngồi tĩnh tọa mà tư duy, chớ có phóng dật, cần tinh tấn thêm, đừng để về sau phải hối hận. Đó là lời khuyến giáo của Ta, đó là huấn thị của Ta.
Đức Phật thuyết như vậy, Tôn giả A-nan và các Tỳ-kheo sau khi nghe những lời đức Phật dạy xong, hoan hỷ phụng hành.
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.