Tam tạng Thánh điển PGVN 18 » Tam tạng Phật giáo Bộ phái 02 »
Dịch tiếng Việt: VIỆN CAO ĐẲNG PHẬT HỌC HẢI ĐỨC - NHA TRANG
Hiệu đính: Hòa Thượng THÍCH THIỆN SIÊU
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật du hóa tại Bà-kỳ-sấu, ở trong Ngạc sơn Bố lâm, vườn Lộc Dã.
Bấy giờ, Tôn giả A-na-luật-đà ở tại Chi-đề-sấu, trong rừng Thủy Chữ. Tôn giả A-na-luật-đà ở chỗ yên tĩnh, ngồi tĩnh tọa, tư duy, tâm nghĩ rằng: “Đạo từ vô dục, chớ không phải từ hữu dục mà chứng đắc; đạo từ tri túc, chớ không phải từ không nhàm tởm mà chứng đắc; đạo từ viễn ly, chớ không phải từ sự ưa tụ hội, không phải từ sự sống ở chỗ tụ hội, không phải từ sự hòa đồng nơi tụ hội mà chứng đắc; đạo từ tinh cần, chớ không phải từ biếng nhác mà chứng đắc; đạo từ chánh niệm, chớ không phải từ tà niệm mà chứng đắc; đạo từ định ý, chớ không phải từ loạn ý mà chứng đắc; đạo từ trí tuệ, chớ không phải từ ngu si mà chứng đắc.”
Lúc ấy, đức Thế Tôn, bằng tha tâm trí biết trong tâm của Tôn giả A-na-luậtđà đang niệm gì, đang nghĩ gì, đang hành gì. Sau khi đã biết, đức Thế Tôn nhập như kỳ tượng định. Bằng như kỳ tượng định, trong khoảnh khắc như thời gian người lực sĩ co duỗi cánh tay; cũng thế, đức Thế Tôn từ Bà-kỳ-sấu, ở Ngạc sơn Bố lâm, trong vườn Lộc Dã, bỗng biến mất, không thấy, xuất hiện ở trước mặt Tôn giả A-na-luật-đà đang trú tại Chi-đề-sấu. Bấy giờ, đức Thế Tôn xuất định, tán thán Tôn giả A-na-luật-đà rằng:
– Lành thay, lành thay, A-na-luật-đà! Thầy ở chỗ yên tĩnh, ngồi tĩnh tọa, tư duy, tâm đã nghĩ thế này: “Đạo từ vô dục, chớ không phải từ hữu dục mà chứng đắc; đạo từ tri túc, chớ không phải từ không nhàm tởm mà chứng đắc; đạo từ viễn ly, chớ không phải từ sự ưa tụ hội, không phải từ sự sống chỗ tụ hội, không phải từ sự hòa đồng nơi tụ hội mà chứng đắc; đạo từ tinh cần, chớ không phải từ biếng nhác mà chứng đắc; đạo từ chánh niệm, chớ không phải từ tà niệm mà chứng đắc; đạo từ định ý, chớ không phải từ loạn ý mà chứng đắc; đạo từ trí tuệ, chớ không phải từ ngu si mà chứng đắc.”
Này A-na-luật-đà, thầy hãy từ Như Lai, lãnh thọ thêm suy niệm thứ tám của bậc Đại nhân. Sau khi lãnh thọ, thầy hãy tư duy rằng: “Đạo từ chỗ không hý luận, thích không hý luận, thực hành không hý luận, chớ không phải từ chỗ hý luận, thích hý luận, thực hành hý luận mà chứng đắc.”
Này A-na-luật-đà, nếu thầy thành tựu tám suy niệm của bậc Đại nhân, chắc chắn thầy có thể ly dục, ly ác, bất thiện pháp, chứng đắc Thiền thứ tư, thành tựu an trú. Này A-na-luật-đà, nếu thầy thành tựu tám suy niệm của bậc Đại nhân này, lại chứng đắc bốn tăng thượng tâm thì sẽ được sống an lạc ngay trong hiện tại, dễ được chớ không khó. Cũng như vua và vương thần có hòm đẹp, đựng đầy các loại y phục, buổi sáng muốn mặc, liền lấy mặc; buổi trưa và buổi chiều muốn mặc, liền lấy mặc; này A-na-luật-đà, thầy cũng như thế, được y phấn tảo làm y bậc nhất, tâm thầy vô dục, thực hành hạnh an trú tĩnh chỉ này.
Này A-na-luật-đà, nếu thầy thành tựu tám suy niệm của bậc Đại nhân, lại chứng đắc bốn tăng thượng tâm thì sẽ sống an lạc ngay trong hiện tại, dễ được chớ không khó. Cũng như vua và vương thần có đầu bếp giỏi làm các thức ăn ngon lành, mỹ diệu; này A-na-luật-đà, thầy cũng như thế, thường sống bằng món ăn khất thực làm món ăn độc nhất, tâm thầy vô dục, thực hành hạnh an trú tĩnh chỉ này.
Này A-na-luật-đà, nếu thầy thành tựu tám suy niệm của bậc Đại nhân, lại chứng đắc bốn tăng thượng tâm thì sẽ sống an lạc ngay trong hiện tại, dễ được chớ không khó. Cũng như vua và vương thần có nhà cửa đẹp, hoặc có lầu gác cung điện; này A-na-luật-đà, thầy cũng như thế, ngồi dưới gốc cây, lấy sự tịch tĩnh làm ngôi nhà bậc nhất, tâm thầy vô dục, thực hành hạnh an trú tĩnh chỉ này.
Này A-na-luật-đà, nếu thầy thành tựu tám suy niệm của bậc Đại nhân, lại chứng đắc bốn tăng thượng tâm thì sẽ sống an lạc ngay trong hiện tại, dễ được chớ không khó. Cũng như vua và vương thần có giường đẹp, trải lên bằng chăn nệm, đệm bông, phủ lên bằng gấm, the, lụa, sa-trun, có chăn đệm ở hai đầu để gối, trải thảm quý bằng da con sơn dương; này A-na-luật-đà, thầy cũng như vậy, chỗ ngồi trải bằng cỏ, bằng lá cây, là chỗ ngồi bậc nhất, tâm thầy vô dục, thực hành hạnh an trú tĩnh chỉ này.
Này A-na-luật-đà, nếu thầy thành tựu tám suy niệm của bậc Đại nhân, lại chứng bốn tăng thượng tâm thì sẽ được sống an lạc ngay trong hiện tại, dễ được chớ không khó. Cũng như thế, nếu thầy an trú phương Đông, chắc chắn sẽ được an lạc, không có các tai họa đau khổ. Nếu thầy an trú phương Nam, phương Tây, phương Bắc, chắc chắn sẽ được an lạc, không có các tai họa đau khổ.
Này A-na-luật-đà, nếu thầy thành tựu tám suy niệm của bậc Đại nhân, lại chứng đắc bốn tăng thượng tâm thì sẽ được sống an lạc ngay trong hiện tại, dễ được chớ không khó. Đối với các pháp thiện mà thầy đã an trú, Ta còn không nói đến, huống nữa là nói đến sự suy thoái, chỉ nên đêm ngày làm tăng trưởng các thiện pháp chớ không nên để suy thoái.
Này A-na-luật-đà, nếu thầy thành tựu tám suy niệm của bậc Đại nhân, lại chứng đắc bốn tăng thượng tâm thì sẽ được sống an lạc ngay trong hiện tại, dễ được chớ không khó. Đối với hai quả, chắc chắn thầy sẽ được một, hoặc được Cứu cánh trí ngay trong đời hiện tại, hoặc nếu còn hữu dư thì được A-na-hàm.
Này A-na-luật-đà, thầy nên thành tựu tám suy niệm của bậc Đại nhân và cũng nên chứng được bốn tăng thượng tâm. Thầy sẽ sống an lạc ngay trong hiện tại, dễ được chớ không khó, nhiên hậu mới an cư mùa mưa ở Chi-đề-sấu, trong rừng Thủy Chữ vậy.
Bấy giờ, đức Thế Tôn thuyết pháp cho Tôn giả A-na-luật-đà, khuyến phát khát ngưỡng, thành tựu hoan hỷ. Sau khi bằng vô lượng phương tiện thuyết pháp, khuyến phát khát ngưỡng, thành tựu hoan hỷ, đức Thế Tôn nhập như kỳ tượng định. Bằng như kỳ tượng định, cũng bằng khoảnh khắc mà người lực sĩ co duỗi cánh tay; cũng vậy, đức Thế Tôn từ Chi-đề-sấu, trong rừng Thủy Chữ, bỗng nhiên biến mất, không thấy và hiện ra ở Bà-kỳ-sấu, Ngạc sơn Bố lâm, trong vườn Lộc Dã.
Lúc ấy, Tôn giả A-nan cầm quạt đứng hầu đức Phật. Đức Thế Tôn liền xuất định, quay lại bảo A-nan rằng:
- Này A-nan, nếu có Tỳ-kheo nào đến Ngạc sơn Bố lâm, trong vườn Lộc Dã thì bảo họ tụ tập tại giảng đường. Sau khi họ tụ tập tại giảng đường xong, thầy trở lại cho Ta hay.
Tôn giả A-nan vâng lời đức Phật, cúi đầu đảnh lễ dưới chân Ngài, liền đi tuyên bố rằng đức Như Lai dạy, nếu có Tỳ-kheo nào đến Ngạc sơn Bố lâm, trong vườn Lộc Dã thì tất cả hãy tụ tập tại giảng đường. Sau khi các Tỳ-kheo tụ tập tại giảng đường, Tôn giả A-nan trở lại chỗ đức Phật, cúi đầu, đảnh lễ dưới chân Ngài, rồi đứng qua một bên, bạch rằng:
- Bạch đức Thế Tôn, các Tỳ-kheo đến Ngạc sơn Bố lâm, trong vườn Lộc Dã và tất cả đã tụ tập tại giảng đường. Mong đức Thế Tôn biết cho, nay đã đúng thời.
Lúc ấy, đức Thế Tôn dẫn Tôn giả A-nan đi đến giảng đường, trải chỗ ngồi và ngồi ở trước chúng Tỳ-kheo. Ngồi xong, Ngài dạy:
- Này các Tỳ-kheo, Ta nói cho các thầy nghe về tám suy niệm của bậc Đại nhân. Các thầy hãy lắng nghe và khéo tư duy, ghi nhớ.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo vâng lời lắng nghe. Đức Phật dạy:
- Đây là tám suy niệm của bậc Đại nhân: Đạo từ vô dục, chớ không phải từ hữu dục mà chứng đắc; đạo từ tri túc, chớ không phải từ không nhàm tởm mà chứng đắc; đạo từ viễn ly, chớ không phải từ sự ưa tụ hội, không phải từ sự sống ở chỗ tụ hội, không phải từ sự hòa đồng nơi tụ hội mà chứng đắc; đạo từ tinh cần, chớ không phải từ biếng nhác mà chứng đắc; đạo từ chánh niệm, chớ không phải từ tà niệm mà chứng đắc; đạo từ định ý, chớ không phải từ loạn ý mà chứng đắc; đạo từ trí tuệ, chớ không phải từ ngu si mà chứng đắc; đạo từ chỗ không hý luận, không thích thú hý luận, không thực hành hý luận, chớ không phải từ hý luận, thích thú hý luận, thực hành hý luận mà chứng đắc.
Thế nào là đạo từ vô dục, chớ không phải từ hữu dục mà chứng đắc? Nghĩa là Tỳ-kheo chứng đắc vô dục, tự biết chứng đắc vô dục, không làm cho kẻ khác biết mình vô dục; chứng đắc tri túc, chứng đắc viễn ly, chứng đắc tinh cần, chứng đắc chánh niệm, chứng đắc định ý, chứng đắc trí tuệ, chứng đắc không hý luận, tự biết chứng đắc không hý luận, không làm cho kẻ khác biết mình vô dục. Như vậy gọi là đạo từ vô dục, chớ không phải từ hữu dục mà chứng đắc.
Thế nào là đạo từ tri túc, chớ không phải từ không nhàm tởm mà chứng đắc? Nghĩa là Tỳ-kheo thực hành tri túc: Áo dùng để che thân, ăn đủ nuôi thân. Đó là đạo từ tri túc, chớ không phải từ không nhàm tởm mà chứng đắc.
Thế nào là đạo từ viễn ly, chớ không phải từ sự ưa tụ hội, không phải từ sự sống ở chỗ tụ hội, không phải từ sự hòa đồng nơi tụ hội mà chứng đắc? Nghĩa là Tỳ-kheo thực hành viễn ly, thành tựu hai hạnh viễn ly là thân và tâm đều viễn ly. Đó gọi là đạo từ viễn ly, chớ không từ sự ưa tụ hội, sự sống ở chỗ tụ hội, hòa đồng nơi tụ hội mà chứng đắc.
Thế nào là đạo từ tinh cần, chớ không phải từ biếng nhác mà chứng đắc? Nghĩa là Tỳ-kheo thường thực hành tinh cần, đoạn trừ ác, bất thiện pháp, tu các thiện pháp, thường tự khởi ý chuyên nhất, kiên cố, vì các gốc rễ thiện mà không hề từ bỏ khó nhọc. Đó gọi là đạo từ tinh cần, chớ không phải từ biếng nhác mà chứng đắc.
Thế nào là đạo từ chánh niệm, chớ không phải từ tà niệm mà chứng đắc? Nghĩa là Tỳ-kheo quán nội thân như thân, quán nội thọ, nội tâm, nội pháp như pháp. Đó gọi là đạo từ chánh niệm, chớ không phải từ tà niệm mà chứng đắc.
Thế nào là đạo từ định ý, chớ không phải từ loạn ý mà chứng đắc? Nghĩa là Tỳ-kheo ly dục, pháp ác, bất thiện, cho đến chứng đắc Thiền thứ tư, thành tựu và an trú. Đó gọi là đạo từ định ý, chớ không phải từ loạn ý mà chứng đắc.
Thế nào là đạo từ trí tuệ, chớ không phải từ ngu si mà chứng đắc? Nghĩa là Tỳ-kheo tu hạnh trí tuệ, quán pháp hưng suy, chứng đắc trí, Thánh tuệ minh đạt như vậy, phân biệt rõ ràng để dứt sạch khổ một cách chính đáng. Đó gọi là đạo từ trí tuệ, chớ không phải từ ngu si mà chứng đắc.
Thế nào là đạo từ không hý luận, không ưa thích hý luận, không thực hành hý luận, chớ không phải từ hý luận, thực hành hý luận mà chứng đắc? Nghĩa là Tỳ-kheo tâm ý thường diệt hý luận, an lạc trú trong Vô dư Niết-bàn, tâm thường lạc trú, hoan hỷ, ý giải. Đó gọi là đạo từ không hý luận, không ưa thích hý luận, không thực hành hý luận, chớ không phải từ hý luận, thích thú hý luận, thực hành hý luận mà chứng đắc.
Này các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo A-na-luật-đà đã thành tựu tám suy niệm của bậc Đại nhân, sau đó mới an cư mùa mưa tại Chi-đề-sấu, trong rừng Thủy Chữ. Khi Ta đem những điều này ra giảng dạy thì vị ấy sống một mình tại nơi xa vắng, tâm không phóng dật, tu hành tinh cần. Vị ấy sống một mình tại nơi xa vắng, tâm không phóng dật, tu hành tinh cần để đạt đến cứu cánh mà một thiện nam tử, vì cứu cánh ấy đã cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà-sa, chí tín, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất gia học đạo, duy chỉ cầu đắc Vô thượng Phạm hạnh, ngay trong đời này, tự tri tự giác, tự thân chứng đắc, thành tựu và an trú, biết một cách như thật rằng: “Sự sanh đã dứt, Phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa.”
Ngay lúc ấy, Tôn giả A-na-luật-đà chứng đắc A-la-hán, tâm chánh giải thoát, xứng đáng bậc Trưởng lão Thượng tôn, rồi ngài nói bài tụng:
Vô Thượng Thế Gian Sư, |
Xa biết con tư niệm, |
Chánh thân tâm nhập định, |
Nương không, chợt đến đây. |
Biết con tâm niệm này, |
Thuyết pháp vượt lên nữa, |
Chư Phật không hý luận, |
Hý luận đã xa lìa. |
Đã biết pháp Như Lai, |
Ưa trú trong Chánh pháp, |
Rồi tam-muội chứng ngay, |
Pháp Phật đã thành đạt. |
Con chẳng ưa sự chết, |
Cũng không nguyện nơi sanh, |
Tùy thời, tùy sở thích, |
Niệm, chánh trí vững vàng. |
Tỳ-da-ly, Trúc Lâm, |
Nơi đó, mạng con dứt, |
Ở ngay dưới khóm trúc, |
Nhập Vô dư Niết-bàn. |
Đức Phật thuyết như vậy, Tôn giả A-na-luật-đà và các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật dạy xong, hoan hỷ phụng hành.
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.