Viện Nghiên Cứu Phật Học

Tam tạng Thánh điển PGVN 18 » Tam tạng Phật giáo Bộ phái 02 » 

Kinh Trung A-Hàm
(中阿含經)

Dịch tiếng Việt: VIỆN CAO ĐẲNG PHẬT HỌC HẢI ĐỨC - NHA TRANG
Hiệu đính: Hòa Thượng THÍCH THIỆN SIÊU

Mục Lục

71. KINH BỆ-TỨ

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Tôn giả Cưu-ma-la-ca-diếp du hóa tại Câu-tát-la, cùng với đông đủ chúng Tỳ-kheo đi đến Tư-hòa-đề, về phía Bắc một ngôi làng của thị trấn này, trú tại rừng Thi-nhiếp-hòa.

Bấy giờ, ở Tư-hòa-đề có vị vua tên là Bệ-tứ, giàu có cùng tột, của cải vô lượng, sản nghiệp chăn nuôi không thể tính toán, phong hộ, thực ấp, đầy đủ mọi thứ. Tất cả suối ao, cỏ cây ở Tư-hòa-đề đều thuộc về nhà vua, là phong ấp do Vua Ba-tư-nặc, nước Câu-tát-la cấp cho.

Bấy giờ, các Phạm chí, cư sĩ ở Tư-hòa-đề nghe đồn rằng: “Có Sa-môn tên là Cưu-ma-la-ca-diếp du hóa tại nước Câu-tát-la, cùng với chúng Tỳ-kheo đi đến thị trấn Tư-hòa-đề, trú tại rừng Thi-nhiếp-hòa, tại phía Bắc một ngôi làng của thị trấn này. Sa-môn Cưu-ma-la-ca-diếp có danh tiếng lớn lao, mười phương đều nghe. Cưu-ma-la-ca-diếp là bậc biện tài vô ngại, lời nói vi diệu. Tôn giả là bậc Đa văn, là vị A-la-hán. Nếu ai yết kiến vị A-la-hán này, cung kính lễ bái thì được thiện lợi. Chúng ta có thể đến yết kiến Sa-môn Cưu-ma-la-ca-diếp ấy.” Nghe thế, các Phạm chí, cư sĩ ở Tư-hòa-đề, mỗi người cùng với hàng ngũ của mình theo nhau đi từ Tư-hòa-đề lên hướng Bắc, đến rừng Thi-nhiếp-hòa.

Bấy giờ, Vua Bệ-tứ ở trên chánh điện, trông thấy từ xa, các Phạm chí, cư sĩ ở Tư-hòa-đề, mỗi người cùng với hàng ngũ của mình theo nhau đi từ Tư-hòađề lên hướng Bắc, đến rừng Thi-nhiếp-hòa. Vua Bệ-tứ thấy xong, hỏi người hầu rằng:

- Hôm nay vì lý do gì mà các Phạm chí, cư sĩ ở Tư-hòa-đề này, mỗi người cùng với hàng ngũ của mình theo nhau đi từ Tư-hòa-đề lên hướng Bắc, đến rừng Thi-nhiếp-hòa?

Người hầu thưa:

- Tâu Thiên vương, các Phạm chí, cư sĩ ở Tư-hòa-đề nghe có Sa-môn Cưu-ma-la-ca-diếp du hóa tại nước Câu-tát-la cùng với đại chúng Tỳ-kheo đến thị trấn Tư-hòa-đề này, trú tại rừng Thi-nhiếp-hòa, về phía Bắc một ngôi làng của thị trấn này. Tâu Thiên vương, Sa môn Cưu-ma-la-ca-diếp có danh tiếng lớn lao, mười phương đều nghe lời xưng tán rằng: “Cưu-ma-la-ca-diếp là bậc Biện tài vô ngại, lời nói vi diệu. Tôn giả là bậc Đa văn, là vị A-la-hán. Nếu ai yết kiến vị A-la-hán này, cung kính lễ bái thì được thiện lợi. Chúng ta có thể đến yết kiến Sa-môn Cưu-ma-la-ca-diếp ấy.” Tâu Thiên vương, vì lý do đó mà các Phạm chí, cư sĩ ở Tư-hòa-đề này, mỗi người cùng với hàng ngũ của mình theo nhau đi từ Tư-hòa-đề lên hướng Bắc, đến rừng Thi-nhiếp-hòa.

Vua Bệ-tứ nghe xong, liền bảo người hầu:

- Ngươi hãy đi đến các Phạm chí, cư sĩ ở Tư-hòa-đề và thưa rằng: “Vua Bệ-tứ bảo các Phạm chí, cư sĩ xứ Tư-hòa-đề: Này các người, hãy đợi! Ta sẽ cùng các người đi yết kiến Cưu-ma-la-ca-diếp! Các người ngu si, đừng để Sa-môn ấy lừa gạt, nói rằng: Có đời sau, có chúng sanh. Ta thấy như thế này, chủ trương như thế này: Không có đời sau, không có chúng sanh.”

Người hầu vâng lời, liền đến chỗ các Phạm chí, cư sĩ ở Tư-hòa-đề và nói:

- Vua Bệ-tứ bảo các Phạm chí, cư sĩ ở Tư-hòa-đề như thế này: “Các người hãy đợi. Ta sẽ cùng với các người đi đến yết kiến Sa-môn Cưu-ma-la-ca-diếp. Các người ngu si, đừng để Sa-môn ấy lừa gạt, nói rằng: ‘Có đời sau, có chúng sanh.’ Ta quan niệm như thế này, chủ trương như thế này: ‘Không có đời sau, không có chúng sanh.’”

Các Phạm chí, cư sĩ ở Tư-hòa-đề nghe lệnh ấy, bảo người hầu:

- Xin tuân theo như sắc lệnh đưa đến!

Người hầu trở lại, tâu với vua:

- Các Phạm chí, cư sĩ ở Tư-hòa-đề đang đợi Thiên vương. Mong Thiên vương biết cho, đã đến thời!

Bấy giờ, Vua Bệ-tứ bảo người đánh xe:

- Ngươi mau sửa soạn xa giá, ta nay muốn đi!

Người đánh xe vâng lời, sửa soạn xa giá xong, liền trở lại tâu vua:

- Xa giá đã sửa soạn xong, xin tùy ý Thiên vương!

Lúc đó, Vua Bệ-tứ liền cưỡi xe, đi đến chỗ các Phạm chí, cư sĩ ở Tư-hòa-đề, rồi cùng nhau đến rừng Thi-nhiếp-hòa. Khi Vua Bệ-tứ từ xa trông thấy Tôn giả Cưu-ma-la-ca-diếp ở giữa rừng cây, liền xuống xe đi bộ đến chỗ Tôn giả Cưuma-la-ca-diếp, chào hỏi, rồi ngồi qua một bên thưa rằng:

- Này Ca-diếp, tôi nay muốn hỏi, thầy có thể nghe chăng?

Tôn giả Cưu-ma-la-ca-diếp:

- Này Vua Bệ-tứ, muốn hỏi điều gì thì cứ hỏi, tôi nghe xong sẽ suy nghĩ!

Bấy giờ, Vua Bệ-tứ liền hỏi:

- Này Ca-diếp, tôi quan niệm như thế này, chủ trương như thế này: “Không có đời sau, không có chúng sanh sanh ra.” Ý Sa-môn Cưu-ma-la-cadiếp nghĩ sao?

Tôn giả Cưu-ma-la-ca-diếp đáp:

- Này Vua Bệ-tứ, tôi nay xin hỏi vua, vua hiểu thế nào, trả lời thế ấy. Ý vua thế nào, mặt trời, mặt trăng này thuộc về đời này hay đời khác?

Vua Bệ-tứ đáp:

- Này Sa-môn Cưu-ma-la-ca-diếp, tuy Sa-môn nói như thế nhưng tôi vẫn quan niệm như thế này, chủ trương như thế này: ‘Không có đời sau, không có chúng sanh sanh ra.’”

Tôn giả Cưu-ma-la-ca-diếp hỏi rằng:

- Này Vua Bệ-tứ, vua có điều gì nghi ngờ chăng?

Vua Bệ-tứ đáp:

- Đúng như vậy, Ca-diếp! Có điều phi lý thế này: Này Ca-diếp, tôi có người thân lâm bệnh nguy khốn. Tôi đi đến chỗ bệnh nhân, đến xong, nói rằng: “Bạn nên biết rằng, ta quan niệm như thế này, chủ trương như thế này: ‘Không có đời sau, không có chúng sanh sanh ra. Này bạn, trái lại có Sa-môn, Phạm chí quan niệm như thế này, chủ trương như thế này: ‘Có đời sau, có chúng sanh sanh ra.’ Ta thường không tin chủ trương của những kẻ ấy. Những kẻ ấy lại bảo rằng: ‘Nếu có người nam kẻ nữ nào làm việc ác, không tinh tấn, lười biếng, ganh ghét, bỏn xẻn, tham lam, không đại lượng, không thi ân, đắm trước của cải. Do nhân duyên ấy, khi thân hoại mạng chung, kẻ ấy chắc chắn đi đến ác xứ, sanh vào địa ngục.’ Này bạn, nếu Sa-môn, Phạm chí kia nói như vậy là đúng thì bạn là người ruột thịt của ta, đã làm việc ác, không tinh tấn, biếng nhác, ganh ghét, bỏn xẻn, tham lam, không đại lượng, không thi ân, đắm trước của cải. Nếu thân hoại mạng chung, chắc chắn bạn đi đến ác xứ, sanh vào địa ngục thì bạn hãy trở lại tin cho ta hay thế này: ‘Này Vua Bệ-tứ, trong địa ngục ấy, khổ như thế này, như thế này.’ Nếu quả đúng như thế thì tôi mới chấp nhận.” Này Ca-diếp, người thân ấy nghe tôi hỏi và đã nhận lời, thế mà không bao giờ thấy trở lại nói với tôi rằng: “Này Vua Bệ-tứ, trong địa ngục kia, khổ như thế này, như thế này.” Này Ca-diếp, nhân sự kiện này nên tôi nghĩ rằng: “Không có đời sau, không có chúng sanh sanh ra.”

Tôn giả Cưu-ma-la-ca-diếp bảo:

- Này Vua Bệ-tứ, tôi lại hỏi vua, vua hiểu thế nào, trả lời thế ấy. Nếu có thuộc hạ của vua bắt trói một tội nhân, đem đến trước vua thưa rằng: “Tâu Thiên vương, người này có tội, xin Thiên vương trừng trị!” Vua bảo: “Các khanh hãy đem trói chặt hai tay ra đàng sau, bỏ nó lên lưng con lừa chở đi, đánh trống lớn tiếng như lừa kêu, tuyên bố cho khắp nơi biết, rồi đưa ra cổng thành hướng Nam, bắt ngồi dưới cây nêu cao và chém đầu nó.” Thuộc hạ vâng lời, liền trói tay tội nhân ra đàng sau, bỏ lên con lừa chở đi, đánh trống lớn tiếng như lừa kêu, tuyên bố cho khắp nơi biết xong, đưa ra cổng thành hướng Nam, bắt ngồi dưới cây nêu cao, muốn chém đầu nó. Tội nhân sắp chết, nói với đao phủ rằng: “Ông hãy hoãn cho một lúc! Tôi muốn gặp cha mẹ, vợ con, tớ gái, người đưa tin. Hãy để tôi tạm thời ra đi!” Ý vua nghĩ sao? Người đao phủ ấy có thể thả cho tội nhân tạm thời ra đi ít lâu không?

Vua Bệ-tứ đáp:

- Không thể, Ca-diếp!

Tôn giả Cưu-ma-la-ca-diếp bảo:

“Người thân của vua cũng lại nghĩ như thế, đã làm việc ác không tinh tấn, biếng nhác, ganh ghét, bỏn xẻn, tham lam, không thi ân, không đại lượng, đắm trước của cải. Do nhân duyên ấy, khi thân hoại mạng chung, chắc chắn đi đến ác xứ, sanh vào địa ngục. Lúc ngục tốt bắt ra hành hạ, đau đớn, người thân của vua nói với ngục tốt rằng: ‘Này các ngục tốt, các ông hãy hoãn lại một lúc, chớ hành hạ ta đau đớn. Ta muốn tạm thời đi đến Vua Bệ-tứ để báo cho vua hay rằng: ‘Trong địa ngục kia, khổ như thế này, như thế này, để vua chứng kiến.’ Ý vua thế nào, ngục tốt kia có thể thả cho người thân của vua tạm thời ra đi chăng?” Vua Bệ-tứ đáp:

- Không thể, Ca-diếp!

Tôn giả Cưu-ma-la-ca-diếp bảo:

- Vua hãy quán sát về đời sau cũng như vậy, chớ đừng giống như cái thấy của con mắt thịt. Này Vua Bệ-tứ, nếu có Sa-môn, Phạm chí nào đoạn tuyệt dục, ly dục, thú hướng ly dục; đoạn tuyệt nhuế, ly nhuế, thú hướng ly nhuế; đoạn tuyệt si, ly si, thú hướng ly si. Vị ấy dùng thiên nhãn thanh tịnh hơn hẳn người thường, thấy đúng như thật, chúng sanh này lúc sanh lúc tử, sắc đẹp sắc xấu, hoặc diệu hoặc bất diệu, qua lại thiện xứ hay bất thiện xứ đều tùy theo nghiệp mà chúng sanh ấy đã tạo.

Vua Bệ-tứ lại nói:

- Tuy Sa-môn Cưu-ma-la-ca-diếp nói như vậy nhưng tôi vẫn quan niệm như thế này, vẫn chủ trương như thế này: “Không có đời sau, không có chúng sanh sanh ra.”

Tôn giả Cưu-ma-la-ca-diếp bảo:

- Này Vua Bệ-tứ, có điều gì nghi ngờ hơn thế nữa chăng?

Vua Bệ-tứ đáp:

- Đúng như vậy, Ca-diếp! Lại có sự kiện phi lý này: Này Ca-diếp, tôi có người thân lâm bệnh nguy khốn. Tôi đến chỗ bệnh nhân, đến xong nói rằng: “Bạn nên biết tôi quan niệm như thế này: ‘Không có đời sau, không có chúng sanh sanh ra.’ Này bạn thân yêu, trái lại có Sa-môn, Phạm chí quan niệm như thế này, chủ trương như thế này: ‘Có đời sau, có chúng sanh sanh ra.’ Tôi thường không tin chủ trương của những người kia. Những người kia lại bảo rằng: ‘Nếu có kẻ nam người nữ nào có diệu hạnh, tinh tấn, tinh cần, không biếng nhác, không ganh ghét, không bỏn xẻn, không tham lam, có đại lượng, có thi ân, cởi mở, phóng xả, chu cấp cho người cô độc, kẻ bần cùng, làm cho họ thường an lạc, bố thí, không đắm trước của cải. Do nhân duyên ấy, khi thân hoại mạng chung, người ấy chắc chắn đi đến thiện xứ, sanh lên cõi trời.’ Này bạn thân yêu, nếu Sa-môn, Phạm chí nói như vậy là đúng thì bạn là người thân ruột thịt của ta có diệu hạnh, tinh tấn, tinh cần, không biếng nhác, không ganh ghét, không bỏn xẻn, tham lam, có đại lượng, có thi ân, sống cởi mở, phóng xả, chu cấp cho người cô độc, kẻ bần cùng, làm cho người được an lạc, bố thí, không đắm trước của cải, nếu khi thân hoại mạng chung, chắc chắn đi đến thiện xứ, sanh lên cõi trời thì bạn hãy trở lại tin cho ta hay như thế này: ‘Này Vua Bệ-tứ, trên cõi trời hoan lạc như thế này, như thế này.’ Nếu quả đúng như thế thì tôi mới chấp nhận.” Này Sa-môn, người thân ấy nghe tôi nói và đã nhận lời, thế mà không bao giờ trở lại tin cho tôi hay: “Này Vua Bệ-tứ, trên cõi trời hoan lạc như thế này, như thế này.” Này Ca-diếp, nhân sự kiện đó, cho nên tôi nghĩ rằng: “Không có đời sau, không có chúng sanh sanh ra.” Tôn giả Cưu-ma-la-ca-diếp bảo:

- Này Vua Bệ-tứ, hãy nghe tôi nói thí dụ này. Người có trí nghe thí dụ thì hiểu được ý nghĩa. Này Vua Bệ-tứ, cũng như ngoài thôn ấp kia, có một hầm xí công cộng, sâu quá đầu người, đầy phẩn ở trong. Có một người rớt xuống, chìm tận đáy hầm ấy. Nếu có người khác thương xót, mong cầu sự phước lợi và hữu ích, sự an ổn, khoái lạc cho người mắc nạn, liền thong thả kéo nạn nhân từ nhà xí lên, gạt phẩn bằng thanh tre, chùi bằng lá cây, tắm bằng nước ấm, sau khi tắm rửa sạch sẽ, đem bột hương thoa khắp thân thể, mời lên chánh điện, cho vui hưởng ngũ dục. Ý vua nghĩ sao, không lẽ nạn nhân ấy lại tưởng nhớ hầm xí trước đây, hoan hỷ ngợi khen và muốn thấy lần nữa chăng?

Vua Bệ-tứ trả lời:

- Không thể, Ca-diếp! Nếu có một kẻ nào khác tưởng tới hầm xí kia, hoan hỷ, ngợi khen và muốn thấy thì nạn nhân kia cũng không thể ưa kẻ ấy, huống là chính nạn nhân lại tưởng tới hầm xí trước đây, hoan hỷ, ngợi khen, muốn thấy lần nữa. Điều đó không thể xảy ra.

- Vậy thì, này Vua Bệ-tứ, nếu vua có người thân có diệu hạnh, tinh tấn, tinh cần, không biếng nhác, không ganh ghét, không bỏn xẻn tham lam, có đại lượng, có thi ân, cởi mở, phóng xả, chu cấp cho người cô độc, kẻ bần cùng, khiến cho họ được an lạc, bố thí, không đắm trước của cải. Do nhân duyên đó, khi thân hoại mạng chung, chắc chắn người ấy đi đến thiện xứ, sanh lên cõi trời, sau khi sanh lên cõi trời, được vui hưởng ngũ dục ở đó. Ý vua nghĩ sao, không lẽ thiên tử ở cõi trời kia xả bỏ ngũ dục ở đó, tưởng nhớ ngũ dục ở nhân gian này, hoan hỷ, ngợi khen, muốn thấy lại nữa chăng?

Vua Bệ-tứ đáp:

- Không thể, Ca-diếp! Vì sao? Vì ngũ dục nhân gian là thứ xú uế, bất tịnh, rất đáng ghét, không thể hướng đến, không thể ưa thích, thô tháo bất tịnh. Này Ca-diếp, so với ngũ dục nhân gian thì ngũ dục cõi trời là hơn, là tối thượng, là tối hảo, là tối diệu, là tối thắng. Nếu thiên tử cõi trời kia xả bỏ ngũ dục cõi trời, tưởng đến ngũ dục nhân gian, hoan hỷ, ngợi khen, muốn thấy lại, điều đó không thể xảy ra.

- Này Vua Bệ-tứ, vua nên quán sát về đời sau cũng giống như thế, chớ đừng giống cái thấy của con mắt thịt. Này Vua Bệ-tứ, nếu có Sa-môn, Phạm chí nào đoạn tuyệt dục, ly dục, thú hướng ly dục; đoạn tuyệt nhuế, ly nhuế, thú hướng ly nhuế; đoạn tuyệt si, ly si, thú hướng ly si thì vị ấy dùng thiên nhãn thanh tịnh hơn hẳn người thường, thấy đúng như thật chúng sanh này lúc sanh lúc tử, sắc đẹp sắc xấu, hoặc diệu hoặc bất diệu, qua lại thiện xứ hay bất thiện xứ đều tùy theo nghiệp mà chúng sanh ấy đã tạo.

Vua Bệ-tứ lại nói:

- Tuy Sa-môn Cưu ma-la-ca-diếp nói như thế nhưng tôi vẫn quan niệm như thế này, vẫn chủ trương như thế này: “Không có đời sau, không có chúng sanh sanh ra.”

Tôn giả Cưu-ma-la-ca-diếp bảo:

- Này Vua Bệ-tứ, còn có điều gì nghi ngờ hơn thế nữa chăng?

Vua Bệ-tứ đáp:

- Đúng như vậy, Ca-diếp. Có sự kiện phi lý này: Này Ca-diếp, tôi có người bạn thân lâm bệnh nguy khốn. Tôi đến chỗ bệnh nhân, đến xong liền bảo: “Bạn nên biết rằng, ta quan niệm như thế này, chủ trương như thế này: ‘Không có đời sau, không có chúng sanh sanh ra.’ Này bạn thân yêu, trái lại, có Sa môn, Phạm chí quan niệm thế này, chủ trương thế này: ‘Có đời sau, có chúng sanh sanh ra.’ Ta thường không tin lời của những người ấy kẻo những người ấy lại bảo: ‘Nếu có người nam kẻ nữ nào có diệu hạnh, tinh tấn, tinh cần, không biếng nhác, không ganh ghét, không bỏn xẻn tham lam, đại lượng, thi ân, cởi mở, phóng xả, cung cấp cho người cô độc, kẻ bần cùng, khiến cho họ được an lạc, bố thí, không đắm trước của cải. Do nhân duyên ấy, khi thân hoại mạng chung, người ấy chắc chắn đi đến thiện xứ, sanh lên cõi trời.’ Này bạn, nếu Sa-môn, Phạm chí ấy nói đúng thì bạn là người thân ruột thịt của ta có diệu hạnh, tinh tấn, tinh cần, không biếng nhác, không ganh ghét, không bỏn xẻn, không tham lam, có đại lượng, có thi ân, cởi mở, phóng xả, chu cấp cho người cô độc, kẻ bần cùng, thường ưa bố thí, không đắm trước của cải. Nếu khi thân hoại mạng chung, chắc chắn bạn sẽ đi đến thiện xứ, sanh lên cõi trời thì bạn hãy trở lại tin cho ta như thế này: ‘Này Vua Bệ-tứ, ở cõi trời hoan lạc như thế này, như thế này.’ Nếu bạn ở cõi trời, nghĩ rằng: ‘Nếu ta trở về thì sẽ được những gì? Vua Bệ-tứ có nhiều của cải, ông sẽ cho ta.’” Này Ca-diếp, người thân ấy nghe tôi nói và đã nhận lời, thế mà không bao giờ trở lại cho tôi hay như thế này: “Này Vua Bệ-tứ, ở cõi trời hoan lạc như thế này, như thế này.” Này Ca-diếp, nhân sự kiện đó nên tôi nghĩ rằng: “Không có đời sau, không có chúng sanh sanh ra.” Tôn giả Cưu-ma-la-ca-diếp bảo:

- Này Vua Bệ-tứ, tuổi thọ cõi trời thì lâu dài, còn mạng sống ở nhân gian thì ngắn ngủi. Một trăm năm ở nhân gian bằng một ngày, một đêm ở cõi Tam Thập Tam thiên. Có ngày có đêm như vậy, một tháng có ba mươi ngày, một năm có mười hai tháng, mà tuổi thọ của chư thiên ở cõi Tam Thập Tam thiên đến một ngàn năm. Ý vua nghĩ sao? Nếu vua có người thân có diệu hạnh, tinh tấn, tinh cần, không biếng nhác, không ganh ghét, không bỏn xẻn, không tham lam, có đại lượng, có thi ân, cởi mở, phóng xả, chu cấp cho người cô độc, kẻ bần cùng, thường ưa bố thí, không đắm trước của cải. Do nhân duyên đó, khi thân hoại mạng chung, chắc chắn người ấy sẽ đi đến thiện xứ, sanh lên cõi trời. Sau khi sanh lên cõi trời, người thân của vua liền nghĩ: “Trước tiên, ta hãy vui hưởng ngũ dục cõi trời một ngày một đêm; hay là ta hãy vui hưởng ngũ dục ở cõi trời hai, ba, bốn cho đến sáu, bảy ngày, sau đó sẽ trở về tin cho Vua Bệ-tứ hay rằng: ‘Ở cõi trời hoan lạc như thế này, như thế này, để cho nhà vua rõ?’” Ý vua nghĩ sao, bấy giờ vua còn sống chăng?

Vua Bệ-tứ hỏi lại:

- Này Ca-diếp, có người nào sau khi chết đến nói rằng: “Này Sa-môn Ca-diếp, tuổi thọ ở cõi trời thì lâu dài, còn mạng sống ở nhân gian thì ngắn ngủi. Một trăm năm ở nhân gian bằng một ngày, một đêm ở cõi Tam Thập Tam thiên. Có ngày có đêm như vậy, một tháng có ba mươi ngày, một năm có mười hai tháng, mà tuổi thọ của chư thiên ở Tam Thập Tam thiên đến một ngàn năm chăng?

Tôn giả Cưu-ma-la-ca-diếp đáp:

- Này Vua Bệ-tứ, hãy nghe tôi nói thí dụ này! Người có trí nghe thí dụ thì hiểu được ý nghĩa. Này Vua Bệ-tứ, như có người mù kia nói rằng: “Không có sắc đen trắng, cũng không thấy sắc đen trắng; không có sắc dài ngắn, cũng không thấy sắc dài ngắn; không có sắc xa gần, cũng không thấy sắc xa gần; không có sắc thô tế, cũng không thấy sắc thô tế. Vì sao? Vì từ trước ta không thấy, không biết, cho nên không có sắc.” Này Vua Bệ-tứ, người mù kia nói như thế có đúng chăng?” Vua Bệ-tứ đáp:

- Không đúng, Ca-diếp! Vì sao? Này Ca-diếp, vì có sắc đen, trắng, cũng có thấy sắc đen trắng; có sắc dài ngắn, cũng có thấy sắc dài ngắn; có sắc gần xa, cũng có thấy sắc gần xa; có sắc thô tế, cũng có thấy sắc thô tế. Nếu người mù bảo rằng: “Vì ta không thấy, không biết nên không có sắc.” Thì người ấy nói không đúng.

Tôn giả Cưu-ma-la-ca-diếp bảo:

- Này Vua Bệ-tứ, vua cũng như người mù ấy, nếu vua bảo như thế này: “Có người nào sau khi chết đến nói rằng: ‘Này Sa-môn Ca-diếp, tuổi thọ ở cõi trời thì lâu dài, còn mạng sống ở nhân gian thì ngắn ngủi. Một trăm năm ở nhân gian bằng một ngày một đêm ở cõi Tam Thập Tam thiên. Có ngày có đêm như vậy, một tháng có ba mươi ngày, một năm có mười hai tháng, mà tuổi thọ của chư thiên ở cõi Tam Thập Tam thiên đến một ngàn năm.’” Vua Bệ-tứ nói:

- Này Sa-môn Ca-diếp, thật là không nên, không nên nói như vậy! Vì sao? Vì Sa-môn Cưu-ma-la-ca-diếp đã cố tình so sánh tôi giống như kẻ mù kia. Này Ca-diếp, nếu biết tôi, biết người thân thuộc của tôi có diệu hạnh, tinh tấn, tinh cần, không biếng nhác, không ganh ghét, không bỏn xẻn, không tham lam, có đại lượng, có thi ân, cởi mở, phóng xả, chu cấp cho người cô độc, kẻ bần cùng, thường ưa bố thí, không đắm trước của cải. Do nhân duyên đó, khi thân hoại mạng chung, chắc chắn sẽ đi đến thiện xứ, sanh lên cõi trời; thì này Ca-diếp, ngay bây giờ, sau khi thực hành bố thí, tu các phước thiện, phụng trì trai giới, tôi dùng dao tự sát, hoặc uống thuốc độc, hoặc nhảy xuống giếng, hoặc thắt cổ mà chết. Này Ca-diếp, không nên cố tình so sánh tôi như người mù kia.

Tôn giả Cưu-ma-la-ca-diếp đáp:

- Này Vua Bệ-tứ, hãy nghe tôi nói thí dụ khác! Người có trí nghe thí dụ liền hiểu ý nghĩa. Này Vua Bệ-tứ, cũng như một Phạm chí có người vợ trẻ vừa mới mang thai, người vợ cả đã có một đứa con trai. Trong thời gian ấy, Phạm chí kia bỗng nhiên mạng chung. Sau khi mạng chung, con của bà vợ cả nói với bà mẹ kế như thế này: “Tiểu mẫu nên biết, nay của cải trong gia đình này hoàn toàn phải thuộc về tôi, không ai được dự phần vào.” Bà mẹ kế đáp: “Ta nay đang có thai, nếu sanh con trai thì nó phải được phần, nếu sanh con gái thì của cải ấy mới hoàn toàn của cậu.” Con của bà vợ cả lại nói với bà mẹ kế ba lần như thế này: “Tiểu mẫu nên biết, nay của cải trong gia đình này hoàn toàn phải thuộc về tôi, không ai được dự phần vào.” Bà mẹ kế cũng trả lời ba lần như thế này: “Ta nay đang có thai, nếu sanh con trai thì nó phải được chia phần, nếu sanh con gái thì của cải ấy mới hoàn toàn của cậu.” Bấy giờ, bà mẹ kế ngu si không thông suốt, không hiểu rõ, không có trí tuệ, muốn bảo tồn sự sống mà trở lại hại mình. Bà vào trong phòng, lấy dao bén mổ bụng xem là trai hay gái. Bà ấy ngu si không thông suốt, không hiểu rõ, không có trí tuệ, muốn bảo tồn sự sống mà lại tự hại mình và đứa con trong bụng. Nên biết, này Vua Bệ-tứ, nhà vua cũng như vậy, ngu si, không thông suốt, không hiểu rõ ràng, không có trí tuệ, muốn bảo tồn sự sống mà lại nghĩ như thế này: “Này Ca-diếp, nếu biết tôi, biết người thân thích của tôi có diệu hạnh, tinh tấn, tinh cần, không biếng nhác, không ganh ghét, không bỏn xẻn, không tham lam, có đại lượng, có thi ân, cởi mở, phóng xả, chu cấp cho người cô độc, kẻ bần cùng, thường ưa bố thí, không đắm trước của cải. Do nhân duyên đó, khi thân hoại mạng chung, chắc chắn đi đến thiện xứ, sanh lên cõi trời; thì tôi, ngay bây giờ, sau khi thực hành bố thí, tu các phước nghiệp, phụng trì trai giới, tôi dùng dao tự sát, hoặc uống thuốc độc, hoặc nhảy xuống giếng, hoặc thắt cổ mà chết. Này Sa-môn Ca-diếp, không nên cố tình so sánh tôi giống như người mù kia.” Này Vua Bệ-tứ, nếu người tinh tấn mà sống lâu thì được phước lớn, nếu được phước lớn thì sanh lên cõi trời và sống lâu. Này Vua Bệ-tứ, nhà vua nên quán sát đời sau như vậy, chứ đừng giống như cái thấy của con mắt thịt. Này Vua Bệ-tứ, nếu có vị Sa-môn, Phạm chí nào đoạn tuyệt dục, ly dục, thú hướng ly dục; đoạn tuyệt nhuế, ly nhuế, thú hướng ly nhuế; đoạn tuyệt si, ly si, thú hướng ly si thì vị ấy bằng thiên nhãn thanh tịnh hơn hẳn người thường, thấy chúng sanh lúc sanh lúc tử, sắc đẹp sắc xấu, hoặc diệu hoặc bất diệu, qua lại thiện xứ hay bất thiện xứ, đều tùy theo nghiệp mà chúng sanh ấy đã tạo. Vị ấy thấy sự kiện đó đúng như thật.

Vua Bệ-tứ lại nói:

- Tuy Sa-môn Ca-diếp nói như thế nhưng tôi vẫn quan niệm như thế này, chủ trương như thế này: “Không có đời sau, không có chúng sanh sanh ra.” Tôn giả Cưu-ma-la-ca-diếp bảo:

- Này Vua Bệ-tứ, còn có điều gì nghi ngờ nữa chăng?

Vua Bệ-tứ đáp:

- Đúng như vậy, Ca-diếp! Có sự kiện phi lý này: Này Ca-diếp, tôi có người thân mang bệnh nguy khốn. Tôi đến chỗ bệnh nhân hỏi han, thăm viếng, bệnh nhân cũng hỏi han và nhìn tôi. Lúc bệnh nhân chết, tôi lại đến hỏi han, thăm viếng người chết, nhưng người chết không hỏi han, không nhìn tôi. Sau đó tôi cũng không còn trở lại hỏi han, thăm viếng người thân ấy nữa. Này Ca-diếp, do sự kiện đó, tôi nghĩ rằng: “Không có chúng sanh sanh ra.” Tôn giả Cưu-ma-la-ca-diếp bảo:

- Này Vua Bệ-tứ, hãy nghe tôi nói thí dụ này! Người có trí nghe thí dụ thì liền hiểu được ý nghĩa. Này Vua Bệ-tứ, cũng như có người thổi tù và giỏi. Nếu ở xứ kia chưa từng nghe tiếng tù và, người đó đến xứ ấy, vào một đêm tối trèo lên núi cao, tận lực thổi tù và thì mọi người ở xứ ấy, chưa từng nghe tiếng tù và, nay nghe được liền nghĩ: “Tiếng gì mà vi diệu, rất kỳ lạ, thật đáng ưa thích, đáng đến xem nghe, khiến tâm hoan duyệt như thế?” Bấy giờ, những người ấy bèn cùng nhau đi đến chỗ người thổi tù và giỏi. Sau khi đến, họ hỏi rằng: “Đó là tiếng gì mà vi diệu, rất kỳ lạ, thực đáng ưa thích, đáng đến xem nghe, khiến cho tâm hoan duyệt như thế?” Người thổi tù và giỏi đem liệng cái tù và xuống đất, bảo mọi người rằng: “Các vị nên biết, chính đó là tiếng tù và.” Lúc đó, mọi người lấy chân đá cái tù và, rồi nói rằng: “Tù và, hãy kêu đi! Tù và, hãy kêu đi!” Nhưng nó im lìm, không âm hưởng. Người thổi tù và giỏi liền nghĩ: “Nay những người này ngu si, không thông suốt, không hiểu rõ, không có trí tuệ. Vì sao? Vì muốn tìm âm thanh từ một vật vô tri.” Bấy giờ, người thổi tù và giỏi nhặt tù và lên, dùng nước rửa sạch, đưa lên miệng mà tận lực thổi. Khi ấy, mọi người nghe xong, liền nghĩ: “Tù và thực kỳ diệu. Vì sao? Vì nhờ tay, nhờ nước, nhờ miệng, hơi thổi mới phát ra tiếng hay, vang khắp bốn phương.” Này Vua Bệ-tứ, cũng như vậy, nếu người còn sống mới có thể nói năng, hỏi han nhau được, nếu khi chết thì không thể nói năng hỏi han nhau được nữa. Này Vua Bệ-tứ, vua nên quán chúng sanh sanh ra cũng giống như thế, chớ đừng giống như cái thấy của con mắt thịt. Này Vua Bệ-tứ, nếu có vị Sa-môn, Phạm chí nào đoạn tuyệt dục, ly dục, thú hướng ly dục; đoạn tuyệt nhuế, ly nhuế, thú hướng ly nhuế; đoạn tuyệt si, ly si, thú hướng ly si thì vị ấy bằng thiên nhãn thanh tịnh hơn hẳn người thường, thấy chúng sanh này lúc sanh lúc tử, sắc đẹp sắc xấu, hoặc diệu hoặc bất diệu, qua lại thiện xứ hay bất thiện xứ đều tùy theo nghiệp mà chúng sanh ấy đã tạo. Vị ấy thấy sự kiện đó đúng như thật.

Vua Bệ-tứ lại hỏi:

- Tuy Sa-môn Ca-diếp nói như thế nhưng tôi vẫn quan niệm như thế này, vẫn chủ trương như thế này: “Không có chúng sanh sanh ra.” Tôn giả Cưu-ma-la-ca-diếp bảo:

- Này Vua Bệ-tứ, còn có điều gì nghi ngờ hơn thế nữa chăng?

Vua Bệ-tứ đáp:

- Đúng như vậy, Ca-diếp! Còn có sự kiện phi lý này: Tôi có quan hữu ty bắt một tội nhân, đem đến chỗ của tôi, đến rồi, thưa rằng: “Tâu Thiên vương, kẻ này có tội, xin Thiên vương trừng trị!”

Tôi bảo: “Hãy đem tội nhân này cân sống, cân sống xong vật xuống đất, dùng dây thắt cổ giết chết, giết chết xong đem cân lại, ta mới biết người này lúc nào thì nhẹ cân, mềm mại tươi nhuận, đẹp đẽ hơn; đó là lúc chết hay là lúc sống.”

Vị quan ấy vâng lời tôi đem tội nhân cân sống xong, lại vật xuống đất, dùng dây thắt cổ giết chết, giết xong, đem cân lại, thấy rằng tội nhân ấy lúc sống thì nhẹ, mềm mại, sắc tươi nhuận, đẹp đẽ hơn; còn lúc chết thì nặng, cứng, không mềm mại và sắc không tươi nhuận. Này Ca-diếp, nhân sự kiện ấy, cho nên tôi nghĩ rằng: “Không có chúng sanh sanh ra.” Tôn giả Cưu-ma-la-ca-diếp bảo:

Này Vua Bệ-tứ, hãy nghe tôi nói thí dụ này! Người có trí nghe thí dụ liền hiểu được ý nghĩa. Này Vua Bệ-tứ, cũng như thanh sắt, hay lưỡi cày sắt, được đốt cháy suốt ngày. Vật bằng sắt ấy, lúc bấy giờ nhẹ, mềm, sắc tươi nhuận và đẹp hơn. Nếu lửa tắt, nó dần dần trở nên nguội lạnh, nặng hơn, cứng, không mềm và sắc không tươi. Cũng vậy, này Vua Bệ-tứ, nếu người lúc còn sống thì thân thể nhẹ, mềm mại, sắc tươi nhuận, đẹp đẽ; còn lúc chết thì nặng hơn, cứng, không mềm mại và sắc không còn tươi nữa. Này Vua Bệ-tứ, vua nên quán chúng sanh sanh ra cũng như thế, chớ đừng giống như cái thấy của con mắt thịt. Này Vua Bệ-tứ, nếu có vị Sa-môn, Phạm chí nào đoạn tuyệt dục, ly dục, thú hướng ly dục; đoạn tuyệt nhuế, ly nhuế, thú hướng ly nhuế; đoạn tuyệt si, ly si, thú hướng ly si thì vị ấy bằng thiên nhãn thanh tịnh, hơn hẳn người thường, thấy chúng sanh lúc sanh lúc tử, sắc đẹp sắc xấu, hoặc diệu hoặc bất diệu, qua lại thiện xứ hay bất thiện xứ đều tùy theo nghiệp mà chúng sanh ấy đã tạo. Vị ấy thấy hiện tượng đó đúng như thật.

Vua Bệ-tứ lại nói:

- Tuy Sa-môn Ca-diếp nói như thế nhưng tôi vẫn quan niệm thế này, vẫn chủ trương thế này: “Không có chúng sanh sanh ra.” Tôn giả Cưu-ma-la-ca-diếp bảo:

- Này Vua Bệ-tứ, còn có điều gì nghi ngờ hơn thế nữa chăng?

Vua Bệ-tứ đáp:

- Đúng như vậy, Ca-diếp! Còn có sự kiện phi lý này: Này Ca-diếp, tôi có quan hữu ty bắt một tội nhân, đem đến chỗ tôi, đến rồi thưa rằng:“Tâu Thiên vương, người này có tội, xin Thiên vương trừng trị!”

Tôi bảo: “Hãy đem tội nhân ấy bỏ vào nồi sắt, hoặc bỏ vào nồi đồng, đậy kín miệng lại và đốt lửa ở dưới. Khi đã đốt lửa rồi hãy quán sát cùng khắp, xem chúng sanh ấy lúc vào, lúc ra, qua lại chỗ nào.” Vị quan ấy vâng lời tôi, đem tội nhân này bỏ vào lò sắt, hoặc nồi đồng, đậy kín miệng lại và đốt lửa ở dưới. Khi đã đốt lửa, quán sát cùng khắp, để xem chúng sanh ấy, lúc ra lúc vào, qua lại chỗ nào. Nhưng này Ca-diếp, tôi làm phương cách như vậy nhưng cũng chẳng thấy chúng sanh sanh ra. Này Ca-diếp nhân sự kiện đó nên tôi nghĩ rằng:

“Không có chúng sanh sanh ra.”

Tôn giả Cưu-ma-la-ca-diếp bảo:

- Này Vua Bệ-tứ, nay tôi hỏi vua, vua hiểu thế nào, xin trả lời thế ấy! Ý vua nghĩ sao, nếu vào ban ngày, vua ăn thức ăn mỹ diệu, ngon lành, rồi lên giường nằm ngủ; vua nhớ lại đã từng ở trong mộng, có lần thấy vườn tược, hồ tắm, rừng cây, hoa trái, suối trong, sông dài, thỏa thích vui chơi, qua lại cùng khắp chăng?

Vua Bệ-tứ đáp:

- Tôi nhớ lại đã từng có như vậy.

Tôn giả Ca-diếp hỏi tiếp:

- Ngày đó, sau khi ăn những thức ngon lành mỹ diệu xong, vua lên giường nằm ngủ, bấy giờ có ai đứng hầu bên cạnh không?

- Thưa có!

Tôn giả Ca-diếp hỏi tiếp:

- Ngày đó, sau khi ăn những thức ngon lành mỹ diệu xong, lên giường nằm ngủ. Lúc ấy, những người hầu hai bên tả, hữu có thấy được khi vua ra vào, qua lại cùng khắp không?

Vua Bệ-tứ đáp:

- Dù cho có ai khác cũng không thể thấy, huống nữa là bọn hầu hạ hai bên.

- Này Vua Bệ-tứ, hãy quán chúng sanh sanh ra cũng giống như thế, chớ đừng giống như cái thấy của con mắt thịt. Này Vua Bệ-tứ, nếu có vị Sa-môn, Phạm chí nào đoạn tuyệt dục, ly dục, thú hướng ly dục; đoạn tuyệt nhuế, ly nhuế, thú hướng ly nhuế; đoạn tuyệt si, ly si, thú hướng ly si. Vị ấy dùng thiên nhãn thanh tịnh hơn hẳn người thường, thấy chúng sanh lúc sanh lúc tử, khi đẹp khi xấu, hoặc diệu hoặc bất diệu, qua lại thiện xứ hay bất thiện xứ đều tùy theo nghiệp mà chúng sanh ấy đã tạo. Vị ấy thấy sự kiện đó đúng như thật.

Vua Bệ-tứ lại nói:

- Tuy Sa-môn Ca-diếp nói như vậy nhưng tôi vẫn quan niệm như thế này, chủ trương như thế này: “Không có chúng sanh sanh ra.” Tôn giả Ca diếp bảo:

- Này Vua Bệ-tứ, còn điều gì nghi ngờ hơn thế nữa chăng?

Vua Bệ-tứ đáp:

- Đúng như vậy, Ca-diếp! Còn có sự kiện phi lý này: Này Ca-diếp, tôi có quan hữu ty bắt một tội nhân, đem đến trước tôi, đến rồi thưa rằng: “Tâu Thiên vương, người này có tội, xin Thiên vương trừng trị!”

Tôi bảo: “Hãy đem tội nhân này lóc da, xẻo thịt, chặt gân, đục xương cho đến tận tủy, để tìm chúng sanh sanh ra.”

Vị ấy vâng lời tôi, đem tội nhân ra lóc da, xẻo thịt, chặt gân, đục xương đến tận tủy, để tìm chúng sanh sanh ra. Này Ca-diếp, tôi đã làm theo cách thức như thế để tìm chúng sanh sanh ra, mà rốt cuộc cũng chẳng thấy chúng sanh sanh ra. Này Ca-diếp, nhân sự kiện đó nên tôi nghĩ rằng: “Không có chúng sanh sanh ra.”

Tôn giả Ca-diếp bảo:

Này Vua Bệ-tứ, hãy nghe tôi nói thí dụ này! Người có trí nghe thí dụ liền hiểu ý nghĩa. Này Vua Bệ-tứ, cũng như Phạm chí bện tóc thờ lửa ở gần bên đường. Cách đó không xa, có những người khách buôn tá túc. Vào lúc sáng sớm, những người khách buôn ấy vội vã ra đi, bỏ quên một đứa bé. Lúc đó, Phạm chí bện tóc thờ lửa dậy sớm đi đến chỗ các khách buôn tạm trú, xem xét thấy đứa bé đứng một mình, không có chủ nhân. Thấy xong, vị ấy nghĩ: “Nay đứa bé này không nơi nương tựa, nếu ta không nuôi thì chắc chắn nó sẽ chết.” Nghĩ thế, Phạm chí liền ẵm đem về nuôi dưỡng. Thời gian sau, đứa bé lớn khôn. Bấy giờ, Phạm chí bện tóc thờ lửa bận chút việc ở thôn xóm khác. Lúc đó, Phạm chí bện tóc thờ lửa bảo thiếu niên ấy rằng: “Ta bận chút việc, phải xuống thôn xóm một thời gian, con phải giữ lửa cẩn thận chớ để nó tắt; nếu lửa tắt, con hãy dùng cái cọ lửa này mà nhen lại.” Bấy giờ, Phạm chí bện tóc thờ lửa căn dặn xong liền xuống thôn xóm. Sau đó, thiếu niên ấy ra ngoài rong chơi, lửa tắt hết. Khi trở về, nó muốn nhen lửa, liền dùng cái cọ lửa đánh xuống đất bảo rằng: “Lửa hãy cháy lên! Lửa hãy cháy lên!” Nhưng rốt cuộc lửa không cháy. Nó lại đặt cọ lên phiến đá, ra sức đánh và la lên: “Lửa hãy cháy lên! Lửa hãy cháy lên!” Nhưng lửa vẫn không cháy. Lửa không cháy, nó bèn phá cái cọ ấy ra làm mười mảnh, trăm mảnh vứt đi, ngồi bệt xuống đất, sầu não mà nói rằng: “Không tìm được lửa, phải làm sao đây?” Bấy giờ, Phạm chí bện tóc thờ lửa đã làm xong công việc ở thôn xóm, trở về nhà lại. Về đến nơi, hỏi thiếu niên ấy rằng: “Con không vui chơi, chỉ lo chăm sóc ngọn lửa không để nó tắt chăng?”

Thiếu niên trả lời: “Thưa Tôn giả, con đi ra ngoài chơi nên sau đó lửa đã tắt. Khi trở về, con muốn nhen lửa, liền lấy cái cọ lửa đánh xuống đất bảo rằng: ‘Lửa hãy cháy lên! Lửa hãy cháy lên!’ Cuối cùng lửa vẫn không cháy. Con lại đặt lên phiến đá, ra sức đánh và bảo: ‘Lửa hãy cháy lên! Lửa hãy cháy lên!’ Nhưng rồi lửa vẫn không cháy. Lửa không cháy, con liền phá cái cọ ấy ra làm mười mảnh, trăm mảnh vứt đi, rồi ngồi bệt xuống đất. Thưa Tôn giả, con đã tìm kiếm như thế mà không có lửa, không biết làm sao.”

Lúc đó, Phạm chí bện tóc thờ lửa nghĩ rằng: “Cậu thiếu niên này quá ngu si, không thông suốt, không hiểu rõ ràng, không có trí tuệ. Vì sao? Vì từ cái cọ lửa vô tri mà nghĩ cách lấy lửa như vậy.”

Khi ấy, Phạm chí bện tóc thờ lửa đem cọ lửa và bật mồi lửa đặt xuống đất mà cọ xát thì lửa bật và cháy bùng lên, liền bảo thiếu niên rằng: “Này con, phương pháp lấy lửa phải như vậy, chứ không phải như con ngu si, không thông suốt, không có trí tuệ, từ cái cọ lửa vô tri mà nghĩ cách lấy lửa như con đã làm.”

Vì vậy nên biết, này Vua Bệ-tứ, vua cũng lại như thế, ngu si, không thông suốt, không hiểu rõ ràng, không có trí tuệ, đối với xác thịt chết, cho đến xương tủy vô tri mà muốn tìm thấy chúng sanh sanh ra. Này Vua Bệ-tứ, vua nên quán chúng sanh sanh ra như thế, chớ đừng giống như cái thấy của con mắt thịt. Này Vua Bệ-tứ, nếu có vị Sa-môn, Phạm chí nào đoạn tuyệt dục, ly dục, thú hướng ly dục; đoạn tuyệt nhuế, ly nhuế, thú hướng ly nhuế; đoạn tuyệt si, ly si, thú hướng ly si. Vị ấy dùng thiên nhãn thanh tịnh hơn hẳn người thường, thấy chúng sanh lúc sanh lúc tử, khi đẹp khi xấu, hoặc diệu hoặc bất diệu, qua lại thiện xứ hay bất thiện xứ đều tùy theo nghiệp mà chúng sanh ấy đã tạo. Vị ấy thấy sự kiện đó đúng như thật.

Vua Bệ-tứ lại nói:

- Tuy Sa-môn Ca-diếp nói như thế nhưng đối với quan niệm này, tôi vẫn bảo thủ vì dục, bảo thủ vì sân nhuế, bảo thủ vì sợ hãi, bảo thủ vì ngu si, trọn không thể xả bỏ. Vì sao? Nếu có những người ở nước khác nghe được, liền bảo rằng: “Vua Bệ-tứ có quan niệm đã chấp chặt từ lâu, nay bị Sa-môn Ca-diếp hàng phục, sửa sai nên đoạn trừ và xả bỏ.” Này Ca-diếp, vì thế, đối với quan niệm này, tôi vẫn bảo thủ vì dục, bảo thủ vì nhuế, bảo thủ vì sợ hãi, bảo thủ vì si, trọn đời không thể xả bỏ.

Tôn giả Ca-diếp bảo:

- Này Vua Bệ-tứ, hãy nghe tôi nói thí dụ này! Người có trí nghe thí dụ liền hiểu ý nghĩa. Này Vua Bệ-tứ, cũng như hai người bạn bỏ nhà đi tìm kế sanh nhai. Trên đường đi, ban đầu họ thấy có rất nhiều cây gai không chủ. Một người trông thấy, bảo bạn rằng: “Bạn nên biết, nay ở đây có rất nhiều cây gai không chủ, tôi muốn bạn cùng lấy, bó lại, gánh đem về, có thể làm vật dụng được.”

Hai người liền lấy bó lại để gánh đi. Trên đường đi, họ lại thấy rất nhiều tơ lụa kiếp-bối, áo kiếp-bối không chủ, lại thấy rất nhiều bạc cũng không có chủ. Thấy xong, một người vứt bỏ cây gai đang gánh, lấy bạc gói lại. Trên đường đi, lại thấy nhiều đống vàng cũng không có chủ. Bấy giờ, người gánh bạc bàn với người gánh cây gai: “Này bạn, nên biết, vàng này quá nhiều mà không có chủ, bạn nên vứt bỏ cây gai, tôi thì vứt bỏ bạc đang gánh. Tôi muốn cùng với bạn đồng lấy vàng này, gánh trở về, có thể chi dụng được hơn.”

Người gánh gai bảo người gánh bạc: “Tôi gánh cây gai này sau khi đã sắp xếp gọn gàng, bó lại chắc chắn, từ xa gánh tới đây. Tôi không thể bỏ được, bạn nên tự biết lấy, chớ lo cho tôi!”

Khi ấy, người gánh bạc giật gánh gai quăng xuống đất, rồi xổ tung ra. Người gánh gai bảo người gánh bạc rằng: “Bạn đã xổ tung gánh gai của tôi như vậy, tôi đã mất công bó lại chắc chắn, gánh từ xa đến đây nên tôi dứt khoát gánh cây gai này về, không thể bỏ được. Bạn hãy tự biết, chớ lo cho tôi!”

Người gánh bạc liền bỏ gánh bạc, lấy vàng gánh về. Người gánh vàng trở về. Từ xa, cha mẹ trông thấy con gánh vàng về, thấy rồi khen rằng: “Lành thay, lành thay! Hãy đến đây con. Con nhờ vàng này sẽ sống được sung sướng, phụng dưỡng cha mẹ, cung cấp cho vợ con, tớ gái và người sai bảo, lại có thể bố thí cho các vị Sa-môn, Phạm chí, tạo phước thăng thượng, thiện quả thiện báo, sanh vào cõi trời, sống lâu!”

Người gánh cây gai trở về nhà. Từ xa, cha mẹ trông thấy con gánh gai về, thấy vậy mắng rằng: “Ngươi là người có tội trở về, là người vô đức trở về. Vì bó gai này, ngươi sẽ không sống được, không thể phụng dưỡng cha mẹ, không thể chu cấp cho vợ con, tớ gái và người sai bảo, lại cũng không thể bố thí cho Sa-môn và các Phạm chí, không thể tạo phước thăng thượng, không được thiện quả thiện báo, không thể sanh vào cõi trời để được sống lâu.”

Nên biết, này Vua Bệ-tứ, vua cũng như thế. Nếu đối với quan niệm ấy, vua bảo thủ vì dục, bảo thủ vì nhuế, bảo thủ vì sợ hãi, bảo thủ vì ngu si, không bao giờ xả bỏ thì vua sẽ thọ lãnh vô lượng điều dữ, lại bị mọi người chê ghét.

Vua Bệ-tứ lại nói rằng:

- Tuy Sa-môn Ca-diếp đã nói như thế nhưng đối với quan niệm này, tôi bảo thủ vì dục, bảo thủ vì nhuế, bảo thủ vì sợ hãi, bảo thủ vì ngu si nên không bao giờ xả bỏ. Vì sao? Nếu những người ở nước khác nghe được, liền bảo rằng: “Vua Bệ-tứ có một quan niệm đã chấp chặt từ lâu, nay bị Sa-môn Ca-diếp hàng phục, sửa sai nên đã đoạn trừ, xả bỏ.” Này Ca-diếp, vì thế nên đối với quan niệm này, tôi bảo thủ vì dục, bảo thủ vì nhuế, bảo thủ vì sợ hãi, bảo thủ vì ngu si nên không bao giờ xả bỏ.

Tôn giả Ca-diếp lại bảo:

- Này Vua Bệ-tứ, hãy nghe tôi nói thí dụ này. Người có trí nghe thí dụ liền hiểu ý nghĩa. Này Vua Bệ-tứ, cũng như một khách buôn cùng với đoàn khách buôn đông đảo, có một ngàn cỗ xe, đi vào con đường nguy hiểm. Trong đoàn khách buôn ấy, có hai vị thương chủ. Hai vị ấy nghĩ rằng: “Chúng ta làm sao thoát khỏi nạn này?” Họ lại nghĩ: “Đoàn của chúng ta nên chia ra hai toán, mỗi toán năm trăm.” Đoàn khách buôn ấy liền chia ra hai toán, mỗi toán năm trăm. Một thương chủ dẫn năm trăm cỗ xe, tiến vào con đường nguy hiểm. Người thương chủ ấy thường đi dẫn đường ở trước, thấy một người từ bên đường đi ra, quần áo ướt sũng, chân đen, đầu vàng, đôi mắt đỏ lòm, đeo tràng hoa cỏ thơm, đi xe lừa, hai bánh dính bùn. Vị thương chủ trông thấy liền hỏi: “Trên con đường nguy hiểm này, trời có mưa chăng? Có nước trong, củi và cỏ chăng?”

Người lạ ấy đáp: “Trên con đường nguy hiểm này trời mưa lớn, có nhiều nước trong và nhiều củi, cỏ. Này các bạn, các bạn hãy vứt bỏ nước, củi và cỏ ấy đi, chớ để nặng xe. Đi không bao lâu nữa, các bạn sẽ được nước trong, củi và cỏ tốt.”

Vị thương chủ ấy nghe xong, liền trở lại đến toán của mình thuật lại rằng: “Ta đi trước, thấy một người từ bên đường đi ra, áo quần ướt sũng, thân đen, đầu vàng, đôi mắt đỏ lòm, mang tràng hoa cỏ thơm, cưỡi xe lừa, hai bánh dính bùn. Ta hỏi người ấy: ‘Trên con đường nguy hiểm này trời có mưa, có nước trong, củi và cỏ chăng?’ Người ấy đáp: ‘Trên con đường nguy hiểm này, trời mưa lớn, có nhiều nước trong, củi và cỏ tốt. Này các bạn, các bạn hãy vứt bỏ nước, củi và cỏ ấy đi, chớ để nặng xe. Đi không bao lâu nữa, các bạn sẽ được nước trong, củi và cỏ tốt.’ Do đó, này các bạn, chúng ta hãy vứt bỏ nước, củi và cỏ đi. Như vậy, không bao lâu nữa chúng ta sẽ có nước trong, củi và cỏ, chớ để nặng xe.”

Rồi toán khách buôn vứt bỏ nước, củi và cỏ. Đi được một ngày đường, họ không thấy có nước trong, củi và cỏ. Đi hai ngày, ba ngày cho đến bảy ngày, họ vẫn không kiếm được nước trong, củi và cỏ. Sau bảy ngày, toán khách buôn ấy bị quỷ ăn thịt người sát hại.

Người thương chủ thứ hai nghĩ rằng: “Vị thương chủ trước đã qua khỏi tai nạn nguy hiểm, chúng ta phải dùng phương cách nào để thoát nạn?” Nghĩ xong, vị ấy cho năm trăm cỗ xe cùng tiến vào con đường nguy hiểm.

Cũng đi trước dẫn đường, vị thương chủ thứ hai thấy có một người từ bên đường đi ra, áo quần ướt sũng, thân đen, đầu vàng, đôi mắt đỏ lòm, mang tràng hoa cỏ thơm, cưỡi xe lừa, hai bánh dính bùn. Vị thương chủ thứ hai trông thấy, liền hỏi: “Trên con đường nguy hiểm này trời có mưa chăng? Có nước trong, củi và cỏ chăng?”

Người lạ đáp: “Trên con đường nguy hiểm này, trời mưa lớn lắm, có rất nhiều nước trong, củi và cỏ tốt. Này các bạn, các bạn hãy vứt bỏ nước, củi và cỏ ấy đi, chớ để nặng xe. Đi không bao lâu nữa, các bạn sẽ được nước trong, củi và cỏ tốt.”

Người thương chủ thứ hai nghe xong, trở lại thuật với toán rằng: “Ta đi phía trước, thấy có một người từ bên đường đi ra, áo quần ướt sũng, thân đen, đầu vàng, đôi mắt đỏ lòm, mang tràng hoa cỏ thơm, cưỡi xe lừa, hai bánh dính bùn. Ta hỏi: ‘Trên con đường nguy hiểm này, trời có mưa không? Có nước trong, củi và cỏ không?’ Người ấy đáp: ‘Trên con đường nguy hiểm này, trời thường mưa lớn, có nhiều nước trong, cũng có rất nhiều củi và cỏ. Này các bạn, các bạn hãy vứt bỏ nước, củi và cỏ ấy đi, chớ để nặng xe. Đi không bao lâu nữa, các bạn sẽ lấy được nước trong, củi và cỏ tốt.’ Nhưng này các bạn, chúng ta chưa thể vứt bỏ nước, củi và cỏ được. Nếu lấy được nước, củi và cỏ mới thì sau đó chúng ta mới vứt bỏ.”

Toán khách buôn ấy không vứt bỏ nước, củi và cỏ. Họ đi một ngày đường, không lấy được nước, củi và cỏ mới. Họ đi hai ngày, ba ngày cho đến bảy ngày vẫn không lấy được nước, củi và cỏ mới. Lúc người thương chủ thứ hai đi trước, trông thấy nơi mà người thương chủ thứ nhất và toán khách buôn đi trước đã bị quỷ ăn thịt người sát hại; thấy rồi, bảo toán của mình rằng: “Này các bạn, các bạn hãy xem người thương chủ thứ nhất ấy ngu si, không thông suốt, không hiểu rõ ràng, không có trí tuệ, đã tự giết mình lại giết đồng bạn nữa. Các bạn, nếu muốn lấy hàng hóa của những khách buôn toán trước thì tự tiện mà lấy.”

Này Vua Bệ-tứ, nên biết rằng vua cũng lại như thế. Nếu với quan niệm ấy, vua bảo thủ vì dục, bảo thủ vì nhuế, bảo thù vì sợ hãi, bảo thủ vì ngu si, không bao giờ xả bỏ thì vua sẽ chịu vô số điều dữ, lại bị mọi người chê ghét nữa; cũng như người thương chủ thứ nhất và đồng bạn thuộc toán thứ nhất.

Vua Bệ-tứ lại nói:

- Tuy Sa-môn Ca-diếp nói như thế nhưng đối với quan niệm này, tôi vẫn bảo thủ vì dục, bảo thủ vì nhuế, bảo thủ vì sợ hãi, bảo thủ vì ngu si, không bao giờ bỏ. Vì sao? Nếu những người ở nước khác nghe đến, liền bảo rằng: “Vua Bệ-tứ có một quan niệm đã chấp chặt từ lâu, nay bị Sa-môn Ca-diếp hàng phục, sửa sai nên đã đoạn trừ, xả bỏ.” Này Ca-diếp, vì thế nên đối với quan niệm đó, tôi vẫn bảo thủ vì dục, bảo thủ vì nhuế, bảo thủ vì sợ hãi, bảo thủ vì ngu si, không bao giờ xả bỏ.

Tôn giả Ca-diếp bảo:

- Này Vua Bệ-tứ, hãy nghe tôi nói ví dụ này. Người có trí nghe thí dụ liền hiểu ý nghĩa. Này Vua Bệ-tứ, cũng như hai người hẹn nhau chơi đổ xúc xắc.

Người thứ nhất thường lén trộm con xúc xắc mà ngậm, ngậm một lần, hai, ba lần cho đến nhiều lần. Người thứ hai liền nghĩ: ‘Ta cùng chơi với người này, nó luôn luôn gạt mình, trộm con xúc xắc mà ngậm, một, hai, ba hoặc đến nhiều lần.’ Nghĩ thế, người ấy nói với bạn: ‘Ta nay muốn nghỉ, sau đó sẽ chơi lại.’ Bấy giờ, người thứ hai rời khỏi chỗ ấy, dùng thuốc độc tẩm vào con xúc xắc rồi rủ bạn trở lại cùng chơi. Người thứ nhất lại lén trộm con xúc xắc mà ngậm, một lần, hai, ba lần hoặc đến nhiều lần; ngậm xong, liền trợn mắt, sùi bọt mép, gần chết. Bấy giờ, người thứ hai, hướng về người thứ nhất đọc bài tụng:

Xúc xắc này tẩm độc,         Nguời tham ăn không biết,          

Trước ngồi chơi, gạt ta,      Sau phải mang họa khổ.

Nên biết, này Vua Bệ-tứ, vua cũng lại như thế. Nếu đối với quan niệm ấy, vua bảo thủ vì dục, bảo thủ vì nhuế, bảo thủ vì sợ hãi, bảo thủ vì ngu si, không bao giờ xả bỏ thì vua sẽ chịu vô số điều dữ, lại bị mọi người chê ghét; cũng như người chơi kia, vì con xúc xắc mà lừa gạt người nên phải mang họa.

Vua Bệ-tứ lại nói:

Tuy Sa-môn Ca-diếp nói như thế nhưng đối với quan niệm này, tôi vẫn bảo thủ vì dục, bảo thủ vì nhuế, bảo thủ vì sợ hãi, bảo thủ vì ngu si, không bao giờ bỏ. Vì sao? Nếu người ở nước khác nghe đến liền bảo rằng: “Vua Bệ-tứ có một quan niệm đã chấp chặt từ lâu, nay bị Sa-môn Ca-diếp hàng phục, sửa sai nên đã đoạn trừ, xả bỏ.” Này Ca-diếp, vì thế đối với quan niệm đó, tôi vẫn bảo thủ vì dục, bảo thủ vì nhuế, bảo thủ vì sợ hãi, bảo thủ vì ngu si, không bao giờ xả bỏ.

Tôn giả Ca-diếp bảo:

- Này Vua Bệ-tứ, hãy nghe tôi nói thí dụ này! Người có trí nghe thí dụ liền hiểu ý nghĩa. Này Vua Bệ-tứ, cũng như người nuôi heo, lúc đang đi trên đường, thấy có rất nhiều phân khô không chủ, liền nghĩ rằng: “Phân này có thể nuôi no đủ cho nhiều con heo, ta nên lấy gói lại mang đi.” Người ấy liền đội phân mà đi. Giữa đường, gặp trời mưa lớn, phân rỉ ra, chảy xuống vấy bẩn khắp thân, nhưng người ấy vẫn đội đi không chịu vứt bỏ. Người ấy chịu nhiều dơ bẩn, lại bị mọi người chê ghét. Này Vua Bệ-tứ, nên biết rằng, vua cũng như thế. Nếu đối với quan niệm ấy, vua bảo thủ vì dục, bảo thủ vì nhuế, bảo thủ vì sợ hãi, bảo thủ vì ngu si, không bao giờ xả bỏ thì vua sẽ chịu vô số điều dữ, lại bị mọi người chê ghét; cũng như người nuôi heo kia.

Vua Bệ-tứ lại nói:

- Tuy Sa-môn Ca-diếp nói như thế nhưng với quan niệm này, tôi vẫn bảo thủ vì dục, bảo thủ vì nhuế, bảo thủ vì sợ hãi, bảo thủ vì ngu si, không bao giờ xả bỏ. Vì sao? Nếu những người ở nước khác nghe, sẽ bảo rằng: “Vua Bệ-tứ có một quan niệm đã chấp chặt từ lâu, nay bị Sa-môn Ca-diếp hàng phục, sửa sai, đã đoạn trừ xả bỏ.” Này Ca-diếp, vì thế, đối với quan niệm này, tôi vẫn bảo thủ vì sân nhuế, bảo thủ vì sợ hãi, bảo thủ vì ngu si, không bao giờ xả bỏ.

Tôn giả Ca-diếp bảo:

- Này Vua Bệ-tứ, hãy nghe tôi nói thí dụ cuối cùng! Nếu vua hiểu thì tốt; nếu vua không hiểu thì tôi không thuyết pháp nữa. Này Vua Bệ-tứ, cũng như con heo lớn, thủ lãnh của đàn heo năm trăm con, đi vào con đường nguy hiểm. Giữa đường, nó gặp một con cọp. Khi heo đã trông thấy cọp liền nghĩ: “Nếu ta đấu với cọp thì cọp sẽ giết ta. Nếu ta sợ bỏ chạy thì thân tộc sẽ khinh mạn ta. Không biết nay phải dùng phương cách nào để thoát nạn?” Nghĩ xong, nó nói với cọp: “Nếu muốn đấu thì hãy đấu, nếu không thì hãy tránh đường để ta qua.”

Cọp nghe xong liền bảo heo: “Ta chấp nhận đấu với ngươi chớ không tránh đường cho ngươi!”

Heo lại nói: “Này cọp, ngươi hãy đợi chốc lát, ta mặc áo giáp của tổ phụ xong, rồi hãy trở lại cùng đấu!”

Cọp nghe vậy, liền nghĩ: “Nó chẳng phải địch thủ của ta, huống là áo giáp tổ phụ nó.” Nghĩ xong, bảo heo: “Cho tùy ý ngươi!”

Heo liền trở về chuồng, lăn trong đống phân, làm phân lấp đến tận mắt, rồi trở lại chỗ cọp, nói rằng: “Ngươi muốn đấu thì hãy đấu, nếu không thì hãy tránh đường cho ta đi qua.”

Sau khi thấy heo, cọp nghĩ: “Ta thường không ăn sâu bọ tạp nhạp vì uổng hàm răng huống là lại phải đến gần con heo hôi hám này.” Cọp nghĩ xong liền bảo heo: “Ta tránh đường cho ngươi, chứ không đấu với ngươi nữa!”

Heo qua được rồi, quay lại hướng về cọp nói bài tụng:

Này cọp, ngươi bốn chân,    Ta cũng có bốn chân,       

Hãy đến đấu với ta,              Sợ gì mà bỏ chạy.

Bấy giờ, cọp nghe xong, lại nói bài tụng trả lời heo rằng:

Ngươi, lông mọc như rừng,          Hèn nhất trong loài vật,     

Này heo, hãy cút mau,                  Phân thối chịu không nỗi.

Lúc ấy, heo tự khoe, nói bài tụng rằng:

Nước Ma-kiệt, Ương-già,  Nghe ta đấu với ngươi,      

Hãy đến đấu với ta,           Sợ gì mà bỏ chạy.

Cọp nghe vậy, lại nói bài tụng:

Toàn thân lông đều nhơ,                  Ngươi làm ta lây thối,       

Ngươi đấu, muốn cầu thắng,           Ta nay cho ngươi thắng.

Tôn giả Ca-diếp bảo:

- Này Vua Bệ-tứ, tôi cũng như thế. Nếu đối với quan niệm ấy, vua bảo thủ vì dục, bảo thủ vì nhuế, bảo thủ vì sợ hãi, bảo thủ vì ngu si, không bao giờ bỏ thì vua sẽ chịu vô số điều dữ, lại bị mọi người chê ghét; cũng giống như cọp để cho heo thắng.

Vua Bệ-tứ nghe xong nói rằng:

- Thưa Tôn giả, ngay từ đầu, Tôn giả nói thí dụ mặt trời và mặt trăng, lúc đó nghe xong, tôi hiểu ngay, hoan hỷ, thọ trì, nhưng tôi muốn được nghe những biện tài càng lúc càng cao siêu của bậc thượng diệu trí từ nơi Tôn giả nên tôi mới hỏi đi hỏi lại. Tôi nay đem mình quy y Tôn giả Ca-diếp.

Tôn giả Ca-diếp bảo:

- Này Vua Bệ-tứ, vua chớ quy y tôi! Tôi đã quy y Phật, vua cũng nên quy y với Ngài!

Vua Bệ-tứ nói:

- Thưa Tôn giả, con nay xin tự quy y Phật, Pháp và chúng Tỳ-kheo! Cúi mong đức Thế Tôn nhận con làm ưu-bà-tắc, bắt đầu từ hôm nay, trọn đời nguyện đem mình quy y cho đến lúc mạng chung! Thưa Tôn giả Ca-diếp, con từ hôm nay bắt đầu thực hành bố thí, tu phước.

Tôn giả Ca-diếp hỏi:

- Này Vua Bệ-tứ, vua muốn thực hành bố thí, tu phước, sẽ bố thí cho bao nhiêu người và thời gian bao lâu?

Vua Bệ-tứ đáp:

- Bố thí cho một trăm người hoặc đến một ngàn người, một ngày, hai ngày hoặc đến bảy ngày.

Tôn giả Ca-diếp bảo:

- Nếu vua thực hành bố thí, tu phước, bố thí cho một trăm người, hoặc đến một ngàn người, một ngày, hai ngày hoặc đến bảy ngày thì các Sa-môn, Phạm chí ở khắp nơi đều nghe Vua Bệ-tứ đã chấp chặt một quan niệm lâu dài, nay bị Sa-môn Ca-diếp hàng phục, sửa sai nên đã đoạn trừ, xả bỏ. Các vị ấy nghe xong đều sẽ từ phương xa đến, trong bảy ngày không đủ thời gian để vua bố thí. Nếu có ai không nhận được phẩm vật do nhà vua bố thí thì vua không được phước, không được an lạc lâu dài. Này Vua Bệ-tứ, cũng như hạt giống không nát, không hư, không nứt, không bể, không bị tổn thương bởi gió, bởi ánh nắng, bởi nước, được cất giấu chu đáo vào tiết thu. Nếu cư sĩ kia cày sâu, ruộng tốt, làm đất thuần thục xong, gieo giống đúng thời, nhưng mưa không kịp lúc thì ý vua nghĩ sao, hạt giống kia có sanh trưởng được chăng?

- Dạ không!

Tôn giả Cưu-ma-la-ca-diếp bảo:

- Này Vua Bệ-tứ, vua cũng như thế. Nếu thực hành bố thí, tu phước, bố thí cho một trăm người hoặc một ngàn người, một ngày cho đến bảy ngày, những Sa-môn, Phạm chí ở các phương xa đều nghe rằng Vua Bệ-tứ đã chấp chặt một quan niệm lâu dài, nay bị Sa-môn Ca-diếp hàng phục, sửa sai nên đã đoạn trừ, xả bỏ. Các vị ấy nghe xong, đều sẽ từ phương xa đến thì trong bảy ngày không đủ thời gian để vua bố thí. Nếu có vị nào không nhận được thực phẩm do vua bố thí thì vua không được phước, không được an lạc lâu dài.

Vua Bệ-tứ lại hỏi:

- Thưa Tôn giả, tôi phải làm thế nào?

Tôn giả Ca-diếp đáp:

- Này Vua Bệ-tứ, nếu vua thực hành bố thí, tu phước thì phải thường cung cấp trường trai. Nếu vua thực hành bố thí, tu phước mà thường cung cấp trường trai thì các vị Sa-môn, Phạm chí ở khắp nơi nghe rằng Vua Bệ-tứ đã chấp chặt một quan niệm từ lâu, nay bị Sa-môn Ca-diếp hàng phục, sửa sai nên đã đoạn trừ, xả bỏ. Nghe xong, từ các phương xa, các vị đến, đều có thể được vua bố thí nên vua có phước, được an lạc lâu dài. Vua Bệ-tứ, cũng như hạt giống không nát, không hư, không nứt, không bể, không bị tổn thương bởi gió, bởi ánh nắng, bởi nước, được cất giấu chu đáo vào tiết thu. Nếu cư sĩ kia cày sâu, ruộng tốt, làm đất thuần thục xong, gieo giống đúng thời, kịp lúc có mưa thì ý vua nghĩ sao, hạt giống kia có thể sanh trưởng được chăng?

- Sanh trưởng được!

Tôn giả Ca-diếp lại bảo:

- Này Vua Bệ-tứ, vua cũng như vậy. Nếu thực hành bố thí, tu phước mà thường cung cấp trường trai thì các Sa-môn, Phạm chí ở khắp nơi nghe Vua Bệtứ đã chấp chặt một quan niệm lâu dài, nay bị Sa-môn Ca-diếp hàng phục, sửa sai nên đã đoạn trừ, xả bỏ. Nghe xong, từ các phương xa, các vị đến, đều có thể được vua bố thí nên vua được phước, được hưởng an lạc lâu dài.

Bấy giờ, Vua Bệ-tứ nói rằng:

- Con từ nay bắt đầu thực hành bố thí, tu phước và thường cung cấp trường trai.

Lúc đó, Tôn giả Ca-diếp thuyết pháp cho Vua Bệ-tứ và các Phạm chí, cư sĩ ở xứ Tư-hòa-đề, khuyến phát khát ngưỡng, thành tựu hoan hỷ. Sau khi bằng vô lượng phương tiện thuyết pháp, khuyến phát khát ngưỡng, thành tựu hoan hỷ cho những vị ấy xong rồi, Tôn giả ngồi im lặng.

Bấy giờ, Vua Bệ-tứ và các Phạm chí, cư sĩ ở xứ Tư-hòa-đề được Tôn giả Ca-diếp thuyết pháp, khuyến phát khát ngưỡng, thành tựu hoan hỷ. Liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ dưới chân Tôn giả, nhiễu quanh ba vòng rồi lui ra.

Sau đó, Vua Bệ-tứ, tuy thực hành bố thí, tu phước, nhưng bố thí quá thậm tệ như canh đậu xấu, rau thối, chỉ có một miếng gừng, lại bố thí áo gai thô xấu. Bấy giờ, người cai bếp tên là Ưu-đa-la, lúc nhà vua bố thí, tu phước, liền xin Thượng tọa chú nguyện cho nhà vua thế này: “Nếu cuộc bố thí này có phước báo gì, chớ để cho Vua Bệ-tứ hưởng thọ trong đời này và đời sau.” Vua Bệ-tứ nghe Ưu-đa-la, lúc vua bố thí, tu phước thì lại xin Thượng tọa chú nguyện rằng: “Nếu cuộc bố thí này có phước báo gì, chớ để cho Vua Bệ-tứ hưởng thọ trong đời này và đời sau.” Nghe vậy, vua kêu người cai bếp lại hỏi:

- Này Ưu-đa-la, lúc ta bố thí, tu phước, ngươi xin Thượng tọa chú nguyện cho ta rằng: “Cuộc bố thí này nếu có phước báo gì, chớ để cho Vua Bệ-tứ hưởng thọ trong đời này và đời sau.” Có quả thật như vậy chăng?” Ưu-đa-la đáp:

- Quả vậy, tâu Thiên vương. Vì sao? Thiên vương tuy bố thí, tu phước, nhưng quá thậm tệ, bố thí canh đậu xấu, rau thối, chỉ có một miếng gừng. Tâu Thiên vương, thức ăn ấy không đáng để đưa tay cầm, huống là để ăn! Thiên vương bố thí áo gai xấu. Tâu Thiên vương, áo ấy không đáng để dùng chân dậm lên, huống là để mặc. Con kính Thiên vương nhưng không trọng sự bố thí  ấy. Cho nên, tâu Thiên vương, con không mong phước báo của cuộc bố thí tệ mạt này dành cho Thiên vương được hưởng.

Vua Bệ-tứ nghe xong, liền bảo:

- Này Ưu-đa-la, từ nay ngươi bắt đầu đem thức ăn như ta đã ăn mà bố thí, đem áo như áo ta đã mặc mà bố thí.

Từ đó về sau, Ưu-đa-la đem thức ăn giống như thức ăn của vua mà bố thí, đem áo giống như áo vua mà bố thí. Bấy giờ, Ưu-da-la nhờ coi sóc việc bố thí cho Vua Bệ-tứ nên khi thân hoại mạng chung, sanh vào trong cõi Tứ Thiên Vương. Còn Vua Bệ-tứ vì không chí tâm bố thí nên thân hoại mạng chung, sanh vào cung điện Tòng Thọ Lâm Không.

Tôn giả Kiều-diệm-bát-đế, thường qua du hành trong cung điện Tòng Thọ Lâm Không ấy. Tôn giả Kiều-diệm-bát-đế từ xa trông thấy Vua Bệ-tứ, liền hỏi rằng:

- Ông là ai?

Vua Bệ-tứ đáp:

- Thưa Tôn giả Kiều-diệm-bát-đế, Tôn giả có nghe trong châu Diêm-phùđề có vua xứ Tư-hòa-đề, tên là Bệ-tứ chăng?

Tôn giả Kiều-diệm-bát-đế đáp:

- Tôi có nghe trong châu Diêm-phù-đề, ở xứ Tư-hòa-đề có vua tên là Bệ-tứ.

Vua Bệ-tứ nói:

- Thưa Tôn giả Kiều-diệm-bát-đế, con chính là vua ấy, vốn tên là Bệ-tứ.

Tôn giả Kiều-diệm-bát-đế lại hỏi:

- Này Vua Bệ-tứ, vua đã có quan niệm như thế này, chủ trương như thế này: “Không có đời sau, không có chúng sanh sanh ra”, thế thì do đâu vua lại sanh vào đây, trú trong cung điện Tòng Thọ Lâm Không nhỏ hẹp ở Tứ Thiên vương này?

Vua Bệ-tứ lại thưa:

- Thưa Tôn giả Kiều-diệm-bát-đế, con vốn có quan niệm ấy, nhưng bị Sa-môn Ca-diếp hàng phục, sửa sai nên đã đoạn trừ, xả bỏ. Nếu Tôn giả Kiều- diệm-bát-đế có xuống châu Diêm-phù-đề thì xin báo cùng khắp mọi người ở châu Diêm-phù-đề hay rằng, nếu có bố thí, tu phước thì hãy chí tâm bố thí, tự tay bố thí, tự mình đến bố thí, chí tín bố thí, biết có nghiệp, có nghiệp báo bố thí. Vì sao? Vì muốn đừng để cho một ai hưởng phước báo như Vua Bệ-tứ xứ Tư-hòa-đề nữa. Vua Bệ-tứ là vua bố thí, vì không chí tâm bố thí nên sanh vào cung điện Tòng Thọ Lâm Không nhỏ hẹp ở cõi Tứ Thiên Vương.

Bấy giờ, Tôn giả Kiều-diệm-bát-đế im lặng nhận lời. Sau đó, lúc Tôn giả Kiều-diệm-bát-đế xuống châu Diêm-phù-đề, rao cùng khắp cho mọi người ở châu Diêm-phù-đề biết, phải chí tâm bố thí, tự tay bố thí, tự mình đến bố thí, chí tín bố thí, biết có nghiệp, có nghiệp báo bố thí. Vì sao? Vì muốn đừng để cho ai hưởng phước báo bố thí như Vua Bệ-tứ xứ Tư-hòa-đề nữa. Vua Bệ-tứ là vua bố thí mà vì không chí tâm bố thí nên sanh vào cung điện Tòng Thọ Lâm Không nhỏ hẹp ở cõi Tứ Thiên Vương.

Tôn giả Cưu-ma-la-ca-diếp thuyết như vậy, Vua Bệ-tứ và các Phạm chí, cư sĩ xứ Tư-hòa-đề nghe xong, hoan hỷ phụng hành.

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.