Viện Nghiên Cứu Phật Học

Tam tạng Thánh điển PGVN 18 » Tam tạng Phật giáo Bộ phái 02 » 

Kinh Trung A-Hàm
(中阿含經)

Dịch tiếng Việt: VIỆN CAO ĐẲNG PHẬT HỌC HẢI ĐỨC - NHA TRANG
Hiệu đính: Hòa Thượng THÍCH THIỆN SIÊU

Mục Lục

70. KINH CHUYỂN LUÂN VƯƠNG

Tôi nghe như vầy:

Một thời, đức Phật du hóa tại Ma-đâu-lệ-sát-lợi, trong rừng xoài, trên bờ sông Sử-hà.

Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

– Này các Tỳ-kheo, hãy tự mình thắp lên ngọn đèn Chánh pháp, hãy tự nương tựa nơi pháp của chính mình, chớ đừng thắp lên ngọn đèn nào khác, đừng nương tựa một pháp nào khác. Này các Tỳ-kheo, nếu ai tự mình thắp lên ngọn đèn Chánh pháp, tự nương tựa nơi pháp của chính mình, không thắp lên ngọn đèn nào khác, không nương tựa pháp nào khác thì có thể cầu học, được lợi và phước vô lượng. Vì sao? Này các Tỳ-kheo, thuở xưa, có vua tên là Kiên Niệm làm Chuyển Luân Vương, thông minh, trí tuệ, có bốn loại quân, chỉnh trị thiên hạ, tự do tự tại, là vị Pháp vương như pháp, thành tựu bảy báu, được phước đức của một người có bốn thứ như ý. Thành tựu bảy báu và được phước đức của một người có bốn thứ như ý như thế nào? Thành tựu và được phước đức của một người có bốn thứ như ý như đã nói trước đây.

Bấy giờ, Vua Kiên Niệm, vào một thời gian sau, thiên luân báu bỗng rời khỏi chỗ cũ. Có người trông thấy, đến chỗ Vua Kiên Niệm thưa: “Tâu Thiên vương, nên biết rằng, thiên luân báu đã rời khỏi chỗ cũ.” Vua Kiên Niệm nghe xong, bảo rằng:

“Này Thái tử, thiên luân báu của ta đã rời khỏi chỗ cũ. Này Thái tử, chính ta từng nghe cổ nhân nói rằng nếu thiên luân báu của Chuyển Luân Vương rời khỏi chỗ cũ thì vua ấy chắc chắn không còn sống lâu, mạng vua không tồn tại lâu nữa. Này Thái tử, ta đã hưởng dục lạc nhân gian, nay sẽ cầu dục lạc thiên thượng. Này Thái tử, ta muốn cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà-sa, chí tín, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất gia học đạo. Này Thái tử, nay ta đem bốn châu thiên hạ này giao phó cho con, con hãy chỉnh trị, giáo hóa đúng như pháp, chớ dùng phi pháp, không để cho trong nước có những người tạo ác nghiệp và phi Phạm hạnh. Này Thái tử, về sau, nếu con thấy thiên luân báu rời khỏi chỗ cũ thì con cũng phải đem việc quốc chính của nước này giao phó lại cho con của con; khéo dạy bảo và ủy thác giang sơn cho nó, rồi con cũng phải cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà-sa, chí tín, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất gia học đạo.”

Bấy giờ, Vua Kiên Niệm giao phó đất nước cho thái tử và khéo dạy bảo xong, liền cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà-sa, chí tín, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất gia học đạo. Sau khi Vua Kiên Niệm xuất gia học đạo bảy ngày, thiên luân báu ấy biến mất, không thấy.

Lúc mất thiên luân báu, Vua Sát-lợi Đảnh Sanh quá ưu sầu, ảo não, không hoan lạc. Vua Sát-lợi Đảnh Sanh liền đến chỗ tiên nhơn, tức Vua cha Kiên Niệm, đến rồi thưa rằng:

“Tâu Thiên vương, nên biết rằng, sau khi Thiên vương học đạo mới bảy ngày thì thiên luân báu kia biến mất, không thấy nữa.

Tiên nhơn, Vua cha Kiên Niệm bảo Vua Sát-lợi Đảnh Sanh rằng:

“Con chớ vì mất thiên luân báu mà nhớ tiếc, ưu sầu. Vì sao? Con không được thiên luân báu này từ nơi cha.”

Vua Sát-lợi Đảnh Sanh lại thưa cha: “Tâu Thiên vương, con nay phải làm gì?” Tiên vương, Vua cha Kiên Niệm bảo:

“Con phải học pháp kế thừa. Nếu học pháp kế thừa thì vào ngày rằm là ngày thuyết giải thoát giới, sau khi tắm rửa và đi lên chánh điện xong thì thiên luân báu ấy chắc chắn sẽ từ phương Đông hiện đến, có ngàn căm và đầy đủ các bộ phận, thanh tịnh tự nhiên, chẳng phải do người tạo, màu sắc như ánh lửa, chói lọi sáng ngời.”

Vua Sát-lợi Đảnh Sanh lại thưa với vua cha rằng:

“Tâu Thiên vương, pháp kế thừa như thế nào, mà Thiên vương muốn bảo con học, để lúc học rồi, vào ngày rằm là lúc thuyết giải thoát giới, sau khi tắm rửa và lên chánh điện thì thiên luân báu ấy sẽ từ phương Đông hiện đến, có ngàn căm và đầy đủ các bộ phận, thanh tịnh tự nhiên, chẳng phải do người tạo, màu sắc như ánh lửa, chói lọi sáng ngời?”

Tiên nhơn, Vua cha Kiên Niệm, lại bảo:

“Con hãy quán pháp đúng như pháp, thực hành pháp đúng như pháp, hãy vì thái tử, hậu phi, thể nữ và các thần dân, Sa-môn, Phạm chí, cho đến loài côn trùng mà phụng trì trai giới vào những ngày mùng tám, mười bốn và mười lăm, tu hạnh bố thí, bố thí cho những người nghèo khổ, Sa-môn, Phạm chí, kẻ bần cùng, người cô độc từ các phương xa đến xin, đem đồ ăn, thức uống, áo, mền, xe cộ, tràng hoa, bột hoa, bột hương, nhà cửa, giường nệm, đệm lông, khăn quấn và đèn mà cho họ. Nếu trong nước con có các bậc Thượng tôn danh đức Sa-môn, Phạm chí thì con phải tùy thời đi đến chỗ của các vị ấy để hỏi pháp, thọ pháp như thế này: ‘Thưa chư Tôn, thế nào là pháp thiện, thế nào là pháp bất thiện? Thế nào là tội, thế nào là phước? Thế nào là diệu, thế nào là phi diệu? Thế nào là hắc, thế nào là bạch? Pháp hắc, bạch từ đâu sanh? Thế nào là mục đích của đời này, thế nào là mục đích của đời sau? Làm thế nào để thọ thiện mà không thọ ác?’ Được nghe từ các vị ấy xong thì hãy thực hành đúng như lời các vị ấy dạy. Nếu trong nước con có kẻ bần cùng thì hãy lấy của cải cung cấp đầy đủ. Này con, đó là pháp kế thừa, con nên khéo học. Con đã khéo học thì vào ngày rằm là ngày thuyết giải thoát giới, sau khi tắm rửa và lên chánh điện, chắc chắn thiên luân báu ấy sẽ từ phương Đông hiện đến, có ngàn căm và đầy đủ các bộ phận, thanh tịnh tự nhiên, chẳng phải do người tạo, màu sắc như ánh lửa, chói lọi sáng ngời.”

Vua Sát-lợi Đảnh Sanh, sau đó liền quán pháp đúng như pháp, thực hành pháp đúng như pháp, đã vì thái tử, hậu phi, thể nữ và các thần dân, Sa-môn, Phạm chí, cho đến loài côn trùng mà phụng trì trai giới vào các ngày mùng tám, mười bốn và mười lăm, tu hạnh bố thí, bố thí cho những người nghèo khốn, Samôn, Phạm chí, kẻ bần cùng, người cô độc từ các phương xa đến xin, đem đồ ăn, thức uống, áo, mền, xe cộ, tràng hoa, bột hoa, bột hương, nhà cửa, giường nệm, đệm lông, khăn quấn và đèn cung cấp cho họ đầy đủ. Nếu trong nước của vua có các bậc Thượng tôn danh đức Sa-môn, Phạm chí thì vua tùy thời đích thân đến chỗ các ngài hỏi pháp, thọ pháp như thế này: “Thưa chư Tôn, thế nào là pháp thiện, thế nào là pháp bất thiện? Thế nào là tội, thế nào là phước? Thế nào là diệu, thế nào là phi diệu? Thế nào là hắc, thế nào là bạch? Pháp hắc, bạch từ đâu sanh? Thế nào là mục đích của đời này, thế nào là mục đích của đời sau? Làm thế nào để thọ thiện mà không thọ ác?”

Được nghe từ các ngài rồi, nhà vua thực hành đúng pháp, như lời các ngài chỉ dạy. Nếu trong nước của vua có kẻ bần cùng, nhà vua liền lấy của cải, tùy thời cung cấp đầy đủ. Sau đó, Vua Sát-lợi Đảnh Sanh, vào ngày rằm là ngày thuyết giải thoát giới, khi đã tắm rửa và lên chánh điện rồi, thiên luân báu ấy từ phương Đông hiện đến, có ngàn căm và đầy đủ các bộ phận thanh tịnh tự nhiên, chẳng phải do người tạo, màu sắc như ánh lửa, chói lọi sáng ngời. Vua được làm Chuyển Luân Vương, thành tựu bảy báu, được phước đức của một người có bốn thứ như ý. Thành tựu bảy báu và được phước đức của một người có bốn thứ như ý như thế nào? Thành tựu bảy báu và được phước đức của một người có bốn thứ như ý như đã nói ở trước.

Vua Chuyển Luân Vương ấy, vào một thời gian sau, thiên luân báu bỗng nhiên rời khỏi chỗ cũ. Có người trông thấy, liền đến chỗ vua Chuyển Luân Vương, thưa rằng:

“Tâu Thiên vương, nên biết rằng, thiên luân báu đã rời khỏi chỗ cũ.” Chuyển Luân Vương nghe xong, liền bảo thái tử:

“Này Thái tử, thiên luân báu của ta đã rời khỏi chỗ cũ. Thái tử, ta từng nghe từ phụ vương ta, Tiên nhơn Kiên Niệm như thế này: ‘Nếu thiên luân báu của vua Chuyển Luân Vương rời khỏi chỗ cũ thì vua ấy chắc chắn không còn sống lâu, mạng vua không tồn tại lâu nữa.’ Này Thái tử, ta đã hưởng dục lạc thế gian, nay sẽ cầu dục lạc thiên thượng. Này Thái tử, ta muốn cạo bỏ râu tóc,  mặc áo cà-sa, chí tín, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất gia học đạo. Này Thái tử, con hãy chỉnh trị, giáo hóa đúng như pháp, chớ dùng phi pháp, không để cho trong nước có những người tạo ác nghiệp và phi Phạm hạnh. Này Thái tử, về sau, nếu con thấy thiên luân báu rời khỏi chỗ cũ thì con cũng phải đem việc quốc chính của nước mà giao phó lại cho con của con, khéo dạy bảo và ủy thác giang sơn cho nó, rồi con cũng cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà-sa, chí tín, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất gia học đạo.”

Bấy giờ, Vua Chuyển Luân Vương ấy giao phó đất nước cho thái tử, khéo dạy bảo xong liền cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà-sa, chí tín, từ bỏ gia đình, xuất gia học đạo. Sau khi Vua Chuyển Luân Vương xuất gia học đạo bảy ngày thì thiên luân báu biến mất, không còn thấy nữa.

Lúc mất thiên luân báu, Vua Sát-lợi Đảnh Sanh không ưu sầu mà lại nhiễm dục, trước dục, không nhàm chán tham dục, bị dục trói buộc, bị lệ thuộc vào dục, bị dục sai khiến, không thấy tai họa của dục, không biết sự xuất ly khỏi dục, tự cai trị đất nước theo ý mình. Vì tự cai trị đất nước theo ý mình nên đất nước suy vong, không phục hưng nỗi; trong khi các vị Chuyển Luân Vương thuở xưa học pháp kế thừa nên đất nước nhân dân càng hưng thịnh thêm mãi không hề suy giảm. Vua Sát-lợi Đảnh Sanh lại tự cai trị đất nước theo ý mình, vì tự cai trị đất nước theo ý mình nên đất nước suy vong, không phục hưng nỗi.

Bấy giờ, Phạm chí quốc sư đi quan sát tình cảnh đất nước, thấy đất nước, nhân dân đã suy vong, không phục hưng nỗi, liền nghĩ rằng: “Vua Sát-lợi Đảnh Sanh tự cai trị đất nước theo ý mình. Vì cai trị đất nước theo ý mình nên đất nước, nhân dân đã suy vong, không phục hưng nỗi; trong khi các bậc Chuyển Luân Vương thuở xưa học pháp kế thừa nên đất nước, nhân dân càng hưng thịnh thêm mãi, không hề suy giảm. Vua Sát-lợi Đảnh Sanh này lại tự cai trị đất nước theo ý của vua. Vì cai trị đất nước theo ý của vua nên đất nước, nhân dân đã suy vong, không phục hưng nỗi.” Phạm chí quốc sư liền đến Vua Sát-lợi Đảnh Sanh và thưa:

“Tâu Thiên vương, nên biết rằng Thiên vương đã tự cai trị đất nước theo ý của Thiên vương. Vì đã tự cai trị đất nước theo ý của Thiên vương nên đất nước, nhân dân đã suy giảm, không phục hưng nỗi; trong khi các vị Chuyển Luân Vương thuở xưa đã học pháp kế thừa nên đất nước, nhân dân càng hưng thịnh mãi, không hề suy giảm. Nay Thiên vương lại tự cai trị đất nước theo ý của Thiên vương. Vì cai trị đất nước theo ý của Thiên vương nên đất nước, nhân dân đã suy vong, không phục hưng nỗi.”

Nghe xong, Vua Sát-lợi Đảnh Sanh bảo: “Này Phạm chí, ta phải làm thế nào?”

Phạm chí quốc sư trả lời:

“Tâu Thiên vương, trong nước có người thông minh, trí tuệ, am tường toán số. Trong nước có đại thần và quyến thuộc học kinh, hiểu rõ kinh, tụng tập thọ trì pháp kế thừa. Khi đã học pháp kế thừa thì vào ngày rằm là ngày thuyết giải giới thoát, sau khi tắm rửa và lên ngự trên chánh điện xong thì thiên luân báu ấy chắc chắn sẽ từ phương Đông hiện đến, có ngàn căm và đầy đủ các bộ phận, thanh tịnh tự nhiên, chẳng phải do người tạo, màu sắc như ánh lửa, chói lọi sáng ngời.”

Vua Sát-lợi Đảnh Sanh lại hỏi:

“Này Phạm chí, pháp kế thừa như thế nào, mà Phạm chí muốn ta học, để lúc học rồi, vào ngày rằm là ngày thuyết giải thoát giới, sau khi tắm rửa và lên chánh điện xong thì thiên luân báu ấy sẽ từ phương Đông hiện đến, có một ngàn căm, đầy đủ các bộ phận, thanh tịnh tự nhiên, chẳng phải do người tạo, màu sắc như ánh lửa, chói lọi sáng ngời?” Phạm chí quốc sư thưa:

“Tâu Thiên vương, Thiên vương hãy quán pháp đúng như pháp, thực hành pháp đúng như pháp, hãy vì thái tử, hậu phi, thể nữ và các thần dân, Sa-môn, Phạm chí, cho đến loài côn trùng mà phụng trì trai giới vào những ngày mùng tám, mười bốn và mười lăm; tu hạnh bố thí, bố thí cho những người nghèo khốn, Sa-môn, Phạm chí, kẻ bần cùng, người cô độc từ các phương xa đến xin, đem đồ ăn, thức uống, áo, mền, xe cộ, tràng hoa, bột hoa, bột hương, nhà cửa, giường nệm, đệm lông, khăn quấn, đèn mà cung cấp cho họ đầy đủ. Nếu trong nước có bậc Thượng tôn danh đức Sa-môn, Phạm chí thì Thiên vương hãy tùy thời đi đến chỗ của các ngài để hỏi pháp, thọ pháp như thế này: ‘Thưa chư Tôn, thế nào là pháp thiện, thế nào là pháp bất thiện? Thế nào là tội, thế nào là phước? Thế nào là diệu, thế nào là phi diệu? Thế nào là hắc, thế nào là bạch? Pháp hắc, bạch từ đâu sanh? Thế nào là mục đích của đời này, thế nào là mục đích của đời sau? Làm thế nào để thọ thiện mà không thọ ác?’ Được nghe từ các ngài xong thì Thiên vương nên thực hành đúng như lời các ngài đã dạy. Nếu trong nước của Thiên vương có kẻ bần cùng thì nên lấy của cải cung cấp đầy đủ cho họ. Tâu Thiên vương, đó là pháp kế thừa, Thiên vương nên khéo học và ghi nhớ, rồi vào ngày rằm là ngày thuyết giải thoát giới, sau khi tắm rửa và lên chánh điện thì thiên luân báu ấy chắc chắn sẽ từ phương Đông hiện đến, có một ngàn căm và đầy đủ các bộ phận, thanh tịnh tự nhiên, chẳng phải do người tạo, màu sắc như ánh lửa, chói lọi sáng ngời.”

Sau đó, Vua Sát-lợi Đảnh Sanh liền quán pháp đúng như pháp, thực hành pháp đúng như pháp, đã vì thái tử, hậu phi, thể nữ và các thần dân, Sa-môn, Phạm chí, cho đến loài côn trùng mà phụng trì trai giới vào những ngày mùng tám, mười bốn và mười lăm; tu hạnh bố thí, bố thí cho những người nghèo khốn, Sa-môn, Phạm chí, kẻ bần cùng, người cô độc từ các phương xa đến xin, đem đồ ăn, thức uống, áo, mền, xe cộ, tràng hoa, bột hoa, bột hương, nhà cửa, giường nệm, đệm lông, khăn quấn và đèn dầu cung cấp cho họ đầy đủ. Nếu trong nước có các bậc Thượng tôn danh đức Sa-môn, Phạm chí thì vua đã đích thân tùy thời đến chỗ các vị ấy để hỏi pháp, thọ pháp như thế này: “Thưa chư Tôn, thế nào là pháp thiện, thế nào là pháp bất thiện? Thế nào là tội, thế nào là phước? Thế nào là diệu, thế nào là phi diệu? Thế nào là hắc, thế nào là bạch? Pháp hắc, bạch từ đâu sanh? Thế nào là mục đích của đời này, thế nào là mục đích của đời sau? Làm thế nào để thọ thiện mà không thọ ác?” Được nghe từ các ngài xong, nhà vua thực hành đúng như lời các ngài chỉ bảo. Nhưng trong nước có người bần cùng, vua không đem vật dụng cấp phát. Do đó, kẻ nghèo không có của cải, không được cấp phát nên càng nghèo khốn hơn. Vì nghèo khốn nên ăn trộm vật dụng của kẻ khác. Vì ăn trộm nên chủ nhân bắt trói đem đến Vua Sát-lợi Đảnh Sanh, thưa rằng:

“Tâu Thiên vương, người này ăn trộm vật dụng của con, xin Thiên vương trừng trị!”

Vua Sát-lợi Đảnh Sanh hỏi người ăn trộm:

“Quả thật ngươi có ăn trộm chăng?” Người ấy đáp:

 “Tâu Thiên vương, quả thật con có ăn trộm! Vì sao? Tâu Thiên vương, vì nghèo khốn, nếu không ăn trộm thì không có gì để sống.”

Vua Sát-lợi Đảnh Sanh liền đem của cải cấp phát cho và nói với người ăn trộm:

“Ngươi hãy trở về và sau này chớ có tái phạm!”

Lúc đó, dân chúng trong nước nghe nói về Vua Sát-lợi Đảnh Sanh như thế này: “Nếu trong nước ai có trộm cắp thì nhà vua liền đem của cải cấp phát cho.” Do đó, có người nghĩ rằng: “Chúng ta cũng nên ăn cắp tài sản của người khác.” Từ đó, dân chúng trong nước ai cũng tranh nhau trộm cắp tài sản của kẻ khác. Vì thế, người nghèo khốn không có của cải, không được cấp phát càng trở nên nghèo khốn hơn nên nạn trộm cắp càng lan tràn. Vì trộm cắp lan tràn nên tuổi thọ của con người giảm xuống, hình sắc trở nên thô xấu.

Này các Tỳ-kheo, sau khi tuổi thọ của loài người giảm xuống, hình sắc trở nên thô xấu thì người cha thọ tám vạn tuổi, con thọ bốn vạn tuổi.

Này các Tỳ-kheo, lúc loài người thọ bốn vạn tuổi, có người trộm cắp vật dụng của kẻ khác. Chủ nhân bắt trói, dẫn đến Vua Sát-lợi Đảnh Sanh, thưa rằng:

“Tâu Thiên vương, người này ăn trộm vật dụng của con. Xin Thiên vương trừng trị!”

Vua Sát-lợi Đảnh Sanh hỏi người lấy trộm:

“Quả thực ngươi có ăn trộm chăng?” Người ấy đáp:

“Tâu Thiên vương, quả thật con có ăn trộm! Vì sao? Vì nghèo khốn, nếu không ăn trộm, con không có gì để sống.”

Nghe xong, Vua Sát-lợi Đảnh Sanh liền nghĩ rằng: “Nếu trong nước ta có nạn trộm cắp vật dụng của kẻ khác mà ta lại đem của cải cấp phát đầy đủ; như vậy, khi không ta làm cho đất nước kiệt quệ, dung túng cho nạn trộm cắp lan tràn. Nay ta nên rèn dao thực bén, nếu trong nước ta có ai trộm cắp thì bắt trói ngay dưới cây nêu cao và chém đầu nó.” Sau đó, Vua Sát-lợi Đảnh Sanh hạ lệnh rèn dao thật bén, nếu trong nước có ai ăn trộm vật dụng của kẻ khác thì cho bắt trói dưới cây nêu cao và chém đầu.

Người trong nước bấy giờ nghe Vua Sát-lợi Đảnh Sanh ra lệnh rèn dao thật bén, nếu trong nước có ai ăn trộm vật dụng của kẻ khác thì cho bắt trói dưới cây nêu cao và chém đầu. Họ bèn nghĩ rằng: “Ta cũng nên bắt chước rèn dao thật bén, mang đi ăn trộm vật dụng, nếu lấy vật dụng của ai thì bắt chủ nhân của vật ấy mà chém đầu.”

Từ đó về sau, những người ăn trộm thi nhau rèn dao bén, mang đi ăn trộm vật dụng, bắt các chủ nhân mà chém đầu. Do đó, kẻ nghèo khốn không của cải, không được cấp phát càng nghèo khốn hơn. Vì càng nghèo khốn hơn nên nạn trộm cắp càng lan tràn thêm. Vì nạn trộm cắp càng lan tràn nên sự chém giết càng tăng lên. Vì nạn chém giết càng tăng nên tuổi thọ của loài người giảm xuống, hình sắc trở nên thô xấu.

Này các Tỳ-kheo, sau khi tuổi thọ giảm xuống, hình sắc trở nên thô xấu thì người cha chỉ sống bốn vạn tuổi và con sống hai vạn tuổi.

Này các Tỳ-kheo, lúc loài người sống hai vạn tuổi, có người ăn trộm vật dụng của kẻ khác. Chủ nhân bắt trói, dẫn đến Vua Sát-lợi Đảnh Sanh, thưa rằng:

“Tâu Thiên vương, người này ăn trộm vật dụng của con, xin Thiên vương trừng trị!”

Vua Sát-lợi Đảnh Sanh hỏi tội nhân:

“Quả thực ngươi có ăn trộm chăng?”

Bấy giờ, người ăn trộm nghĩ rằng: “Vua Sát-lợi Đảnh Sanh nếu biết sự thật này thì sẽ trói rồi đánh mình, hoặc vứt ném, hoặc tẩn xuất, hoặc phạt tiền của, hoặc trừng trị đau đớn đủ cách, hoặc treo lên cây rồi bêu đầu của mình. Có lẽ mình nên dùng lời nói dối, lừa gạt Vua Sát-lợi Đảnh Sanh chăng?” Nghĩ xong, người ấy thưa rằng:

“Tâu Thiên vương, tôi không lấy trộm.”

Do đó, kẻ nghèo khốn không có của cải, không được cấp phát càng nghèo khốn hơn. Vì càng nghèo khốn nên nạn trộm cắp càng lan tràn mãi. Vì nạn trộm cắp lan tràn nên sự chém giết gia tăng. Vì sự chém giết gia tăng nên sự nói dối, nói hai lưỡi gia tăng. Vì sự nói dối, nói hai lưỡi gia tăng nên tuổi thọ của loài người giảm xuống, hình sắc trở nên thô xấu.

Này các Tỳ-kheo, lúc tuổi thọ giảm xuống, hình sắc trở nên thô xấu thì người cha chỉ thọ hai vạn tuổi, người con chỉ thọ một vạn tuổi.

Này các Tỳ-kheo, lúc loài người thọ một vạn tuổi thì trong nhân dân có người có đức, có người vô đức. Nếu ai vô đức thì ghen ghét người có đức và phạm tà hạnh với vợ của người. Do đó, kẻ nghèo khốn không có của cải, không được cấp phát càng nghèo khốn hơn. Vì càng nghèo khốn nên trộm cắp càng lan tràn. Vì trộm cắp lan tràn nên chém giết gia tăng. Vì chém giết gia tăng nên nói dối, nói hai lưỡi gia tăng. Vì nói dối, nói hai lưỡi gia tăng nên tật đố, tà dâm gia tăng. Vì tật đố, tà dâm gia tăng nên tuổi thọ của loài người giảm xuống, hình sắc trở nên thô xấu. Này các Tỳ-kheo, lúc tuổi thọ giảm xuống, hình sắc trở nên thô xấu thì người cha chỉ thọ một vạn tuổi, người con chỉ thọ năm ngàn tuổi.

Này các Tỳ-kheo, lúc loài người chỉ thọ năm ngàn tuổi thì ba pháp gia tăng, đó là phi pháp dục, tham và tà pháp. Vì ba pháp này gia tăng nên tuổi thọ loài người giảm xuống, hình sắc trở nên thô xấu. Này các Tỳ-kheo, lúc tuổi thọ loài người giảm xuống, hình sắc trở nên thô xấu thì người cha chỉ thọ năm ngàn tuổi, người con chỉ thọ hai ngàn năm trăm tuổi.

Này các Tỳ-kheo, lúc loài người thọ hai ngàn năm trăm tuổi thì ba pháp khác lại gia tăng, đó là lưỡng thiệt, thô ngữ và ỷ ngữ. Vì ba pháp này gia tăng nên tuổi thọ loài người giảm xuống, hình sắc trở nên thô xấu. Này các Tỳ-kheo, lúc tuổi thọ loài người giảm xuống, hình sắc trở nên thô xấu thì người cha chỉ thọ hai ngàn năm trăm tuổi, người con chỉ thọ một ngàn tuổi.

Này các Tỳ-kheo, lúc loài người thọ một ngàn tuổi thì một pháp gia tăng, đó là tà kiến. Vì pháp này gia tăng nên tuổi thọ loài người giảm xuống, hình sắc trở nên thô xấu. Này các Tỳ-kheo, lúc tuổi thọ loài người giảm xuống, hình sắc trở nên thô xấu thì người cha chỉ thọ một ngàn tuổi, người con chỉ thọ năm trăm tuổi.

Này các Tỳ-kheo, khi loài người thọ năm trăm tuổi thì con người lúc ấy suốt đời không hiếu thảo với cha mẹ, không kính trọng Sa-môn, Phạm chí, không làm việc thuận lợi, không tạo phước nghiệp, không thấy tội đời sau. Loài người vì không hiếu thảo với cha mẹ, không tôn kính Sa-môn, Phạm chí, không làm việc thuận lợi, không tạo phước nghiệp, không thấy tội đời sau; cho nên,  này các Tỳ-kheo, lúc đó người cha chỉ thọ năm trăm tuổi, người con chỉ thọ hai trăm năm mươi tuổi, hoặc hai trăm tuổi.

Này các Tỳ-kheo, hiện giờ nếu có ai trường thọ thì được một trăm tuổi và có thể là ít hơn nữa.

Đức Phật lại bảo:

– Một thời gian lâu xa về đời vị lai, sẽ có lúc con người chỉ thọ mười tuổi. Này các Tỳ-kheo, lúc con người thọ mười tuổi thì con gái sanh ra mới năm tháng đã lấy chồng. Này các Tỳ-kheo, lúc con người thọ mười tuổi, có một giống lúa tên là bại tử, là thức ăn ngon nhất, cũng như lúa gạo là thức ăn ngon nhất của con người hôm nay. Này các Tỳ-kheo, cũng giống như thế, lúc con người thọ mười tuổi thì có loại lúa tên là bại tử, là món ăn ngon nhất.

Này các Tỳ-kheo, lúc con người thọ mười tuổi, nếu ngày nay có sữa, dầu, muối, đường phèn, đường mía thì thời ấy, những thứ đó sẽ biến mất tất cả.

Này các Tỳ-kheo, lúc con người thọ mười tuổi, nếu ai tạo mười ác nghiệp đạo thì kẻ ấy sẽ được người khác kính trọng. Cũng như hiện giờ, nếu ai tạo mười thiện nghiệp đạo thì kẻ ấy được người khác kính trọng. Này các Tỳ-kheo, lúc con người thọ mười tuổi cũng như vậy, nếu ai tạo mười ác nghiệp đạo thì kẻ ấy được người khác kính trọng.

Này các Tỳ-kheo, lúc con người thọ mười tuổi thì hoàn toàn không có một danh từ “thiện”, huống nữa là có người tạo mười thiện nghiệp đạo.

Này các Tỳ-kheo, lúc con người thọ mười tuổi, có người tên là Đàn Phạt, đi đến khắp mọi nhà, hành hạ đánh đập.

Này các Tỳ-kheo, lúc con người thọ mười tuổi thì mẹ đối với con có tâm giết hại rất mãnh liệt; con đối với mẹ cũng có tâm giết hại rất mãnh liệt; cha con, anh em, chị em, thân thuộc đối với nhau đều có tâm giết hại lẫn nhau. Cũng như người thợ săn, trông thấy con nai thì có tâm giết hại rất mãnh liệt. Này các Tỳ-kheo, lúc con người thọ mười tuổi cũng lại như thế, mẹ đối với con có tâm giết hại rất mãnh liệt; con đối với mẹ cũng có tâm giết hại rất mãnh liệt; cha con, anh em, chị em, quyến thuộc đối với nhau đều có tâm giết hại lẫn nhau.

Này các Tỳ-kheo, lúc con người thọ mười tuổi, sẽ có nạn đao binh bảy ngày. Nếu ai cầm cỏ thì cỏ hóa thành đao, nếu ai nắm cây củi thì cây củi cũng hóa thành đao. Ai cũng dùng đao để giết hại lẫn nhau. Qua bảy ngày, nạn đao binh mới chấm dứt.

Bấy giờ, cũng có người biết thẹn thùng xấu hổ, nhàm tởm, chán ghét, không ưa những kẻ hung ác kia. Lúc có nạn đao binh bảy ngày, họ đi vào núi non hoặc đồng nội, ẩn náu ở nơi yên ổn. Sau bảy ngày ấy thì họ từ núi non đồng nội, nơi yên ổn đi ra. Trông thấy nhau, họ sanh lòng thương mến, quyến luyến nhau vô cùng. Cũng như mẹ hiền chỉ có một đứa con đã xa cách lâu ngày, nay từ phương xa trở về gia đình yên ổn, mẹ con thấy nhau, hoan hỷ, sanh lòng thương mến, quyến luyến nhau vô cùng. Những người kia, sau bảy ngày, từ núi non đồng nội, ở chốn yên ổn đi ra, trông thấy nhau, sanh lòng thương mến, quyến luyến nhau vô cùng cũng giống như thế. Trông thấy nhau rồi, họ liền nói rằng: “Chư Hiền, chúng ta nay thấy nhau còn được yên ổn, chúng ta vì tạo pháp bất thiện nên gặp gỡ nơi đây, thân tộc chết hết. Chúng ta hãy cùng nhau thực hành thiện pháp. Làm thế nào để cùng nhau thực hành thiện pháp? Chúng ta đều là kẻ sát sanh, nay nên xa lìa sát sanh, đoạn trừ sát sanh; chúng ta nên thực hành thiện pháp ấy.” Những người kia cùng nhau thực hành thiện pháp. Sau khi thực hành thiện pháp tuổi thọ liền tăng lên, hình sắc trở nên đẹp đẽ. Này các Tỳ-kheo, lúc tuổi thọ đã tăng lên, hình sắc trở nên đẹp đẽ thì người thọ mười tuổi sanh ra con thọ hai mươi tuổi.

Này các Tỳ-kheo, người thọ hai mươi tuổi lại nghĩ rằng: “Nếu cầu học điều thiện thì tuổi thọ tăng lên, hình sắc trở nên đẹp đẽ. Chúng ta nên cùng nhau làm điều thiện nhiều hơn. Làm thế nào để cùng nhau làm điều thiện nhiều hơn?

Chúng ta đã xa lìa sự sát sanh, đoạn trừ sát sanh; nhưng vẫn còn cùng nhau lấy của không cho, chúng ta nên xa lìa việc lấy của không cho, đoạn trừ việc lấy của không cho. Chúng ta nên cùng nhau làm điều thiện ấy.” Những người kia liền cùng nhau làm điều thiện như thế. Khi đã làm điều thiện ấy, tuổi thọ lại tăng lên, hình sắc trở nên đẹp đẽ. Này các Tỳ-kheo, lúc tuổi thọ của loài người tăng lên, hình sắc trở nên đẹp đẽ thì người thọ hai mươi tuổi sanh con thọ bốn mươi tuổi.

Này các Tỳ-kheo, người thọ bốn mươi tuổi cũng nghĩ thế này: “Nếu cầu học điều thiện thì tuổi thọ tăng lên, hình sắc trở nên đẹp đẽ. Chúng ta nên làm việc thiện nhiều hơn. Làm thế nào để cùng nhau làm việc thiện nhiều hơn? Chúng ta đã xa lìa sát sanh, đoạn trừ sát sanh; xa lìa việc lấy của không cho, đoạn trừ việc lấy của không cho, nhưng vẫn còn tà dâm. Chúng ta nên xa lìa tà dâm, đoạn trừ tà dâm. Chúng ta nên làm việc thiện ấy.” Những người kia cùng nhau làm điều thiện như thế. Khi đã làm điều thiện ấy, tuổi thọ lại tăng lên, hình sắc trở nên đẹp đẽ. Này các Tỳ-kheo, lúc tuổi thọ loài người đã tăng lên, hình sắc trở nên đẹp đẽ thì người thọ bốn mươi tuổi sanh con thọ tám mươi tuổi.

Này các Tỳ-kheo, người thọ tám mươi tuổi cũng nghĩ thế này: “Nếu cầu học điều thiện thì tuổi thọ tăng lên, hình sắc trở nên đẹp đẽ. Chúng ta cùng nhau làm việc thiện nhiều hơn. Làm thế nào để cùng nhau làm việc thiện nhiều hơn? Chúng ta đã xa lìa sát sanh, đoạn trừ sát sanh; xa lìa việc lấy của không cho, đoạn trừ việc lấy của không cho; xa lìa tà dâm, đoạn trừ tà dâm, nhưng  vẫn còn nói dối. Chúng ta nên xa lìa nói dối, đoạn trừ nói dối. Chúng ta nên làm việc thiện ấy.” Những người kia liền cùng nhau làm việc thiện như thế. Khi đã làm việc thiện ấy thì tuổi thọ tăng lên, hình sắc trở nên đẹp đẽ. Này các Tỳ-kheo, lúc tuổi thọ của loài người đã tăng lên, hình sắc trở nên đẹp đẽ thì người thọ tám mươi tuổi sanh con thọ một trăm sáu mươi tuổi.

Này các Tỳ-kheo, người thọ một trăm sáu mươi tuổi cũng nghĩ như thế này: “Nếu cầu học điều thiện thì tuổi thọ tăng lên, hình sắc trở nên đẹp đẽ. Chúng ta nên cùng nhau làm việc thiện nhiều hơn. Làm thế nào để cùng nhau làm việc thiện nhiều hơn? Chúng ta đã xa lìa sát sanh, đoạn trừ sát sanh; đã xa lìa việc lấy của không cho, đoạn trừ việc lấy của không cho; đã xa lìa tà dâm, đoạn trừ tà dâm; đã xa lìa lời nói dối, đoạn trừ lời nói dối, nhưng vẫn còn nói hai lưỡi. Chúng ta nên xa lìa nói hai lưỡi, đoạn trừ nói hai lưỡi. Chúng ta nên cùng nhau làm việc thiện ấy.” Những người kia liền cùng nhau làm việc thiện như thế. Khi đã làm việc thiện ấy, tuổi thọ tăng lên, hình sắc trở nên đẹp đẽ. Này các Tỳ kheo, lúc tuổi thọ của loài người đã tăng lên, hình sắc trở nên đẹp đẽ thì người thọ một trăm sáu mươi tuổi sanh con thọ ba trăm hai mươi tuổi.

Này các Tỳ-kheo, người thọ ba trăm hai mươi tuổi cũng nghĩ rằng: “Nếu cầu học điều thiện thì tuổi thọ tăng lên, hình sắc trở nên đẹp đẽ. Chúng ta nên cùng nhau làm việc thiện nhiều hơn. Làm thế nào để cùng nhau làm việc thiện nhiều hơn? Chúng ta đã xa lìa sát sanh, đoạn trừ sát sanh; xa lìa việc lấy của không cho, đoạn trừ việc lấy của không cho; xa lìa tà dâm, đoạn trừ tà dâm; xa lìa lời nói dối, đoạn trừ lời nói dối; xa lìa lời nói hai lưỡi, đoạn trừ lời nói hai lưỡi, nhưng còn nói thô ác. Chúng ta nên xa lìa lời nói thô ác, đoạn trừ lời nói thô ác. Chúng ta nên làm việc thiện ấy.” Những người kia liền cùng nhau làm việc thiện như thế. Khi đã làm việc thiện ấy, tuổi thọ liền tăng lên, hình sắc trở nên đẹp đẽ. Này các Tỳ-kheo, lúc tuổi thọ của loài người đã tăng lên, hình sắc trở nên đẹp đẽ thì người thọ ba trăm hai mươi tuổi sanh con thọ sáu trăm bốn mươi tuổi.

Này các Tỳ-kheo, người thọ sáu trăm bốn mươi tuổi cũng nghĩ rằng: “Nếu cầu học điều thiện thì tuổi thọ tăng lên, hình sắc trở nên đẹp đẽ. Chúng ta nên cùng nhau làm việc thiện nhiều hơn. Làm thế nào để cùng nhau làm việc thiện nhiều hơn? Chúng ta đã xa lìa sát sanh, đoạn trừ sát sanh; xa lìa việc lấy của không cho, đoạn trừ việc lấy của không cho; xa lìa tà dâm, đoạn trừ tà dâm; xa lìa lời nói dối, đoạn trừ lời nói dối; xa lìa lời nói hai lưỡi, đoạn trừ lời nói hai lưỡi; xa lìa lời nói thô ác, đoạn trừ lời nói thô ác, nhưng vẫn còn nói lời thêu dệt. Chúng ta nên xa lìa lời nói thêu dệt, đoạn trừ lời nói thêu dệt. Chúng ta nên làm việc thiện ấy.” Những người kia liền cùng nhau làm việc thiện như thế. Khi đã làm việc thiện ấy, tuổi thọ liền tăng lên, hình sắc trở nên đẹp đẽ. Này các Tỳ kheo, lúc tuổi thọ loài người đã tăng lên, hình sắc trở nên đẹp đẽ thì người thọ sáu trăm bốn mươi tuổi, sanh con thọ hai ngàn năm trăm tuổi.

Này các Tỳ-kheo, người thọ hai ngàn năm trăm tuổi cũng nghĩ rằng: “Nếu cầu học điều thiện thì tuổi thọ tăng lên, hình sắc trở nên đẹp đẽ. Chúng ta nên cùng nhau làm việc thiện nhiều hơn. Làm thế nào để cùng nhau làm việc thiện nhiều hơn? Chúng ta đã xa lìa sát sanh, đoạn trừ sát sanh; xa lìa việc lấy của không cho, đoạn trừ việc lấy của không cho; xa lìa tà dâm, đoạn trừ tà dâm; xa lìa lời nói dối, đoạn trừ lời nói dối; xa lìa lời nói hai lưỡi, đoạn trừ lời nói hai lưỡi; xa lìa lời nói thô ác, đoạn trừ lời nói thô ác; xa lìa lời nói thêu dệt, đoạn trừ lời nói thêu dệt, nhưng còn tham lam tật đố. Chúng ta nên xa lìa tham lam tật đố, đoạn trừ tham lam tật đố. Chúng ta nên cùng nhau làm việc thiện ấy.” Những người kia liền cùng nhau làm việc thiện như thế. Khi đã làm việc thiện ấy, tuổi thọ liền tăng lên, hình sắc trở nên đẹp đẽ. Này các Tỳ-kheo, lúc tuổi thọ của loài người đã tăng lên, hình sắc trở nên đẹp đẽ thì người thọ hai ngàn năm trăm tuổi sanh con thọ năm ngàn tuổi.

Này các Tỳ-kheo, người thọ năm ngàn tuổi cũng nghĩ rằng: “Nếu cầu học điều thiện thì tuổi thọ tăng lên, hình sắc trở nên đẹp đẽ. Chúng ta nên cùng nhau làm việc thiện nhiều hơn. Làm thế nào để cùng nhau làm việc thiện nhiều hơn? Chúng ta đã xa lìa sát sanh, đoạn trừ sát sanh; xa lìa việc lấy của không cho, đoạn trừ việc lấy của không cho; xa lìa tà dâm, đoạn trừ tà dâm; xa lìa lời nói dối, đoạn trừ lời nói dối; xa lìa lời nói thô ác, đoạn trừ lời nói thô ác; xa lìa lời nói thêu dệt, đoạn trừ lời nói thêu dệt; xa lìa tham lam tật đố, đoạn trừ tham lam tật đố, nhưng vẫn còn sân nhuế. Chúng ta nên xa lìa sân nhuế, đoạn trừ sân nhuế. Chúng ta nên cùng nhau làm việc thiện ấy.” Những người kia liền cùng nhau làm việc thiện như thế. Khi đã làm việc thiện ấy, tuổi thọ liền tăng lên, hình sắc trở nên đẹp đẽ. Này các Tỳ-kheo, lúc tuổi thọ của loài người đã tăng lên, hình sắc trở nên đẹp đẽ thì người thọ năm ngàn tuổi sanh con thọ một vạn tuổi.

Này các Tỳ-kheo, người thọ một vạn tuổi cũng nghĩ rằng: “Nếu cầu học điều thiện thì tuổi thọ tăng lên, hình sắc trở nên đẹp đẽ. Chúng ta nên cùng nhau làm việc thiện nhiều hơn. Làm thế nào để cùng nhau làm việc thiện nhiều hơn? Chúng ta đã xa lìa sát sanh, đoạn trừ sát sanh; xa lìa việc lấy của không cho, đoạn trừ việc lấy của không cho; xa lìa tà dâm, đoạn trừ tà dâm; xa lìa nói dối, đoạn trừ lời nói dối; xa lìa lời nói hai lưỡi, đoạn trừ lời nói hai lưỡi; xa lìa lời nói thô ác, đoạn trừ lời nói thô ác; xa lìa lời nói thêu dệt, đoạn trừ lời nói thêu dệt; xa lìa tham lam tật đố, đoạn trừ tham lam tật đố; xa lìa sân nhuế, đoạn trừ sân nhuế, nhưng vẫn còn tà kiến. Chúng ta nên xa lìa tà kiến, đoạn trừ tà kiến. Chúng ta nên cùng nhau làm việc thiện này.” Những người kia liền cùng nhau làm việc thiện như thế. Khi đã làm việc thiện ấy, tuổi thọ liền tăng thêm, hình sắc trở nên đẹp đẽ. Này các Tỳ-kheo, lúc tuổi thọ của con người đã tăng lên, hình sắc trở nên đẹp đẽ thì người thọ một vạn tuổi sanh con thọ hai vạn tuổi.

Này các Tỳ-kheo, người thọ hai vạn tuổi cũng nghĩ rằng: “Nếu cầu học điều thiện thì tuổi thọ tăng lên, hình sắc trở nên đẹp đẽ. Chúng ta nên cùng nhau làm điều thiện nhiều hơn. Làm thế nào để cùng nhau làm điều thiện nhiều hơn? Chúng ta đã xa lìa sát sanh, đoạn trừ sát sanh; xa lìa việc lấy của không cho, đoạn trừ việc lấy của không cho; xa lìa tà dâm, đoạn trừ tà dâm; xa lìa lời nói dối, đoạn trừ lời nói dối; xa lìa lời nói hai lưỡi, đoạn trừ lời nói hai lưỡi; xa lìa lời nói thô ác, đoạn trừ lời nói thô ác; xa lìa lời nói thêu dệt, đoạn trừ lời nói thêu dệt; xa lìa tham lam tật đố, đoạn trừ tham lam tật đố; xa lìa sân nhuế, đoạn trừ sân nhuế; xa lìa tà kiến, đoạn trừ tà kiến, nhưng vẫn còn có dục phi pháp, ác dục, tham hành tà pháp. Chúng ta nên xa lìa ba pháp ác, bất thiện này; nên đoạn trừ ba pháp ác, bất thiện này. Chúng ta nên cùng nhau làm việc thiện này.” Những người kia liền cùng nhau làm việc thiện như thế. Khi đã làm việc thiện ấy, tuổi thọ liền tăng lên, hình sắc trở nên đẹp đẽ. Này các Tỳ-kheo, lúc tuổi thọ của loài người đã tăng lên, hình sắc trở nên đẹp đẽ thì người thọ hai vạn tuổi sanh con thọ bốn vạn tuổi.

Này các Tỳ-kheo, lúc con người thọ bốn vạn tuổi thì biết hiếu thuận với cha mẹ, tôn trọng cung kính Sa-môn, Phạm chí, làm việc thuận lợi, tu tập phước nghiệp, thấy tội lỗi đời sau. Loài người nhân vì hiếu thuận với cha mẹ, tôn trọng, cung kính Sa-môn, Phạm chí, làm việc thuận lợi, tu tập phước nghiệp, thấy tội đời sau; cho nên, này các Tỳ-kheo, người thọ bốn vạn tuổi sanh con thọ tám vạn tuổi.

Này các Tỳ-kheo, lúc con người thọ tám vạn tuổi, châu Diêm-phù-đề này giàu có cùng tột, nhân dân đông đúc, thôn ấp gần nhau bằng khoảng cách con gà bay. Này các Tỳ-kheo, lúc con người thọ tám vạn tuổi thì con gái đến năm trăm tuổi mới có thể lấy chồng. Này các Tỳ-kheo, lúc con người thọ tám vạn tuổi thì chỉ có những bệnh như lạnh, nóng, đại tiểu tiện, muốn ăn uống về già, ngoài ra không có tai họa nào nữa. Này các Tỳ-kheo, lúc loài người thọ tám vạn tuổi thì có vua tên Loa làm Chuyển Luân Vương, thông minh, trí tuệ, có bốn loại quân, chỉnh trị thiên hạ, tự do tự tại, là vị Pháp vương như pháp, thành tựu bảy báu. Bảy báu đó là luân báu, voi báu, ngựa báu, ngọc báu, nữ báu, cư sĩ báu và tướng quân báu. Đó là bảy báu. Nhà vua có đủ ngàn người con, dung mạo khôi ngô, dũng mãnh không sợ, hàng phục được kẻ khác. Nhà vua thống lãnh trọn quả đất này, cho đến biển cả, không dùng đao gậy, chỉ dùng pháp giáo hóa khiến dân chúng được an lạc.

Này các Tỳ-kheo, các Vua Sát-lợi Đảnh Sanh được làm nhân chủ chỉnh trị thiên hạ, đi lại trong cảnh giới của chính mình mà phụ vương đã truyền lại. Các vị vua ấy nhân đi lại trong cảnh giới của chính mình mà phụ vương đã truyền lại nên tuổi thọ không giảm xuống, hình sắc không thô xấu, chưa từng mất hoan lạc, sức lực cũng không suy giảm.

Này các Tỳ-kheo, các thầy cũng nên như vậy, cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà-sa, chí tín, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất gia học đạo, đi lại trong cảnh giới của chính mình mà người cha đã truyền lại. Này các Tỳ-kheo, các thầy do đi lại trong cảnh giới của chính mình mà người cha đã truyền lại nên tuổi thọ không giảm xuống, hình sắc không thô xấu, chưa từng mất an lạc, thể lực cũng không suy giảm.

Thế nào gọi là Tỳ-kheo đi lại trong cảnh giới của chính mình mà người cha đã truyền lại? Tỳ-kheo quán nội thân như thân, nội giác, nội tâm, nội pháp như pháp. Như thế gọi là Tỳ-kheo đi lại trong cảnh giới của chính mình mà người cha đã truyền lại.

Thế nào gọi là tuổi thọ của Tỳ-kheo? Tỳ-kheo tu dục định như ý túc nương viễn ly, nương vô dục, nương diệt tận, hướng đến đạo xuất ly; tu tinh tấn định, tu tâm định, tu tư duy định như ý túc, nương viễn ly, nương vô dục, nương diệt tận, hướng đến đạo xuất ly. Đó là tuổi thọ của Tỳ-kheo.

Thế nào là sắc của Tỳ-kheo? Tỳ-kheo tu tập cấm giới, thủ hộ giải thoát giới, lại khéo thu nhiếp oai nghi lễ tiết, thấy tội nhỏ nhặt, thường canh cánh lo sợ, thọ trì học giới. Đó là sắc của Tỳ-kheo.

Thế nào là niềm vui của Tỳ-kheo? Tỳ-kheo lìa dục, lìa pháp ác, bất thiện cho đến chứng đắc Thiền thứ tư, thành tựu và an trú. Đó là niềm vui của Tỳ-kheo.

Thế nào là năng lực của Tỳ-kheo? Tỳ-kheo đã diệt sạch các lậu, chứng đắc vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát, trong đời hiện tại, tự tri, tự giác, tự thân tác chứng, thành tựu và an trú, biết như thật rằng: “Sự sanh đã dứt, Phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa.” Đó là năng lực của Tỳ-kheo.

Này các Tỳ-kheo, Ta không thấy có năng lực nào không thể hàng phục như năng lực của Ma vương. Cho nên, vị Lậu tận Tỳ-kheo phải dùng năng lực của vô thượng trí tuệ mới hàng phục được.

Đức Phật thuyết như thế, các Tỳ-kheo sau khi nghe lời Phật dạy xong, hoan hỷ phụng hành.

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.