Tam tạng Thánh điển PGVN 18 » Tam tạng Phật giáo Bộ phái 02 »
Dịch tiếng Việt: VIỆN CAO ĐẲNG PHẬT HỌC HẢI ĐỨC - NHA TRANG
Hiệu đính: Hòa Thượng THÍCH THIỆN SIÊU
Tôi nghe như vầy:
Một thời, đức Phật du hóa tại nước Bệ-đà-đề cùng với đại chúng Tỳ-kheo. Ngài đến Di-tát-la, trú trong rừng Đại Thiên Nại Lâm.
Bấy giờ, đang giữa đường đi, đức Thế Tôn bỗng mỉm cười rạng rỡ. Tôn giả A-nan thấy đức Thế Tôn mỉm cười, liền chắp tay hướng về Ngài và thưa rằng:
- Bạch đức Thế Tôn, vì nhân duyên gì mà Ngài mỉm cười? Các đức Như Lai, bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, nếu không có nhân duyên gì thì không bao giờ mỉm cười. Mong Ngài nói cho con biết ý đó!
Đức Thế Tôn bảo:
- Này A-nan, thuở xưa trong rừng Nại Lâm thuộc xứ Di-tát-la này có nhà vua tên là Đại Thiên, làm Chuyển Luân Vương, thông minh, trí tuệ, có bốn loại quân, chỉnh trị thiên hạ, tự do tự tại, là vị Pháp vương theo đúng pháp, thành tựu bảy báu, được phước đức của một người có bốn thứ như ý.
Này A-nan, Vua Đại Thiên ấy thành tựu bảy báu là những gì? Là luân báu, voi báu, ngựa báu, ngọc báu, nữ báu, cư sĩ báu và tướng quân báu. Đó là bảy báu.
Này A-nan, Vua Đại Thiên thành tựu luân báu như thế nào? Này A-nan, bấy giờ vào ngày rằm là ngày thuyết giải thoát giới, Vua Đại Thiên tắm gội rồi ngụ trên chánh điện thì có thiên luân báu từ phương Đông hiện đến. Thiên luân có đủ tất cả một ngàn căm và đầy đủ tất cả bộ phận, thanh tịnh tự nhiên, chẳng phải do người tạo ra, màu sắc như ánh lửa, chói lọi sáng ngời. Vua Đại Thiên trông thấy, liền hoan hỷ, phấn khởi và nghĩ thầm: “Hiền luân báu đã xuất hiện, diệu luân báu đã xuất hiện. Ta cũng đã từng nghe người xưa bảo rằng: ‘Vào ngày rằm là ngày thuyết giải thoát giới, nếu vị vua Sát-lợi đã làm lễ quán đảnh, tắm gội sạch sẽ rồi ngự trên chánh điện thì có thiên luân báu từ phương Đông hiện đến. Thiên luân có đủ tất cả một ngàn căm và đầy đủ tất cả bộ phận, thanh tịnh, tự nhiên, không phải do người tạo ra, màu sắc như ánh lửa, chói lọi sáng ngời. Vị ấy chắc chắn sẽ làm Chuyển Luân Vương.’ Ta sẽ không làm được Chuyển Luân Vương chăng?”
Này A-nan, thuở xưa, Vua Đại Thiên muốn đích thân thí nghiệm thiên luân báu, liền cho tụ tập bốn loại quân, tượng quân, mã quân, xa quân và bộ quân. Sau khi tụ tập bốn loại quân xong nhà vua đi đến chỗ thiên luân báu, dùng tay trái vỗ về, dùng tay phải đẩy thiên luân mà nói rằng: “Thiên luân báu hãy tự đi và đến nơi nào thiên luân báu chuyển đến.” Này A-nan, thiên luân báu ấy đã chuyển động và lăn về hướng Đông. Lúc ấy, Vua Đại Thiên và bốn loại quân cũng đi theo sau. Nếu thiên luân báu ngừng lại chỗ nào thì Vua Đại Thiên và bốn loại quân đóng lại ở chỗ đó.
Bấy giờ, ở phương Đông, các vị vua ở những nước nhỏ đều đi đến chỗ Vua Đại Thiên, tâu rằng:
“Tâu Thiên vương, kính chào Thiên vương! Các nước này rất giàu có và an lạc, nhân dân đông đúc, hoàn toàn thuộc về Thiên vương. Mong Thiên vương đem pháp giáo hóa, chúng tôi sẽ phụ tá Thiên vương!” Bấy giờ, Vua Đại Thiên bảo các tiểu vương:
“Này các khanh, mỗi vị hãy tự trông coi lấy lãnh thổ của mình; hãy áp dụng pháp, chớ áp dụng phi pháp; đừng để trong nước mình có những người tạo ác nghiệp và phi Phạm hạnh.”
Này A-nan, thiên luân báu ấy qua khỏi phương Đông, vượt qua Đông đại hải, quay lại phương Nam, phương Tây, phương Bắc. Này A-nan, lúc thiên luân báu lăn chuyển vòng quanh cùng khắp thì Vua Đại Thiên cùng bốn loại quân cũng đều đi theo sau. Nếu thiên luân báu ngừng lại chỗ nào thì Vua Đại Thiên và bốn loại quân đều đóng lại ở chỗ ấy.
Bấy giờ, vua các nước nhỏ ở phương Bắc đều đến chỗ Vua Đại Thiên, tâu rằng:
“Tâu Thiên vương, kính chào Thiên vương! Các nước này rất giàu có và an lạc, nhân dân đông đúc, hoàn toàn thuộc về Thiên vương. Mong Thiên vương đem pháp giáo hóa, chúng tôi sẽ phụ tá Thiên vương.” Lúc ấy, Vua Đại Thiên bảo các tiểu vương:
“Này các khanh, mỗi vị hãy tự trông coi lấy lãnh thổ của mình; hãy áp dụng pháp, chớ áp dụng phi pháp; đừng để trong nước mình có những người tạo ác nghiệp, phi Phạm hạnh.”
Này A-nan, thiên luân báu ấy qua phương Bắc, vượt qua Bắc đại hải rồi trở về bản thành của vua. Lúc Vua Đại Thiên ngự trên chánh điện để xử lý tài vật thì thiên luân báu dừng ở trên hư không. Vua Đại Thiên đã thành tựu thiên luân báu như vậy.
Này A-nan, Vua Đại Thiên ấy thành tựu voi báu như thế nào? Này A-nan, lúc Vua Đại Thiên có voi báu thì voi báu ấy trắng toát, có bảy chi rắn chắc, tên là Vu-sa-hạ. Sau khi trông thấy, Vua Đại Thiên hoan hỷ, phấn khởi. Nếu điều phục được thì nó rất hiền lành. Này A-nan, sau đó Vua Đại Thiên bảo tượng sư rằng:
“Ngươi hãy mau huấn luyện voi cho hết sức thuần thục. Nếu voi đã thuần thì đến cho ta hay.”
Bấy giờ, tượng sư vâng lời vua dạy bảo, đến chỗ voi báu huấn luyện nhanh chóng, khiến nó trở nên hết sức thuần thục. Lúc ấy, voi báu nhờ được huấn luyện hết sức công phu nên mau thuần thục. Cũng như voi tốt thuở xưa sống vô lượng trăm ngàn năm, đã trải qua vô lượng trăm ngàn năm được huấn luyện rất công phu nên mau trở thành thuần thục.
Voi báu này cũng giống như vậy, được huấn luyện rất công phu nên mau trở thành thuần thục.
Này A-nan, bấy giờ sau khi tượng sư nhanh chóng huấn luyện voi báu, khiến nó sớm trở nên thuần thục, liền đến chỗ nhà vua tâu rằng:
“Tâu Thiên vương, mong Thiên vương biết cho, hạ thần đã huấn luyện voi báu rất công phu, bây giờ tùy theo ý Thiên vương!”
Này A-nan, khi ấy Vua Đại Thiên muốn thí nghiệm voi báu, vào buổi sáng, khi mặt trời mọc, liền đến chỗ voi, cưỡi lên và đi cùng khắp cả cõi đất cho đến đại hải, rồi tức tốc trở lại bản thành của vua. Vua Đại Thiên đã thành tựu voi trắng báu như vậy.
Này A-nan, Vua Đại Thiên thành tựu ngựa báu như thế nào? Này A-nan, lúc vua Đại Thiên có ngựa báu thì ngựa báu ấy có sắc xanh mướt, đầu đen như quạ, vì lông làm cho ngựa oai vệ nên gọi là Mao mã vương. Nhà vua trông thấy hoan hỷ, phấn khởi. Nếu huấn luyện được thì nó rất hiền lành. Này A-nan, sau đó Vua Đại Thiên bảo mã sư:
“Ngươi hãy lo huấn luyện ngựa cho hết sức thuần thục. Nếu ngựa đã thuần thì đến cho ta hay!”
Bấy giờ, mã sư phụng mệnh vua, đến chỗ ngựa báu, nhanh chóng huấn luyện nó trở nên hết sức thuần thục. Lúc ấy, ngựa báu được huấn luyện công phu, liền sớm trở nên thuần thục. Cũng như ngựa tốt thuở xưa sống vô lượng trăm ngàn năm, đã trải qua vô lượng trăm ngàn năm được huấn luyện công phu, liền trở nên thuần thục. Này A-nan, ngựa báu này cũng lại như vậy, được huấn luyện công phu, liền trở nên thuần thục. Sau khi nhanh chóng huấn luyện ngựa báu, khiến nó trở nên rất thuần thục, mã sư liền đến chỗ Vua Đại Thiên thưa rằng:
“Tâu Thiên vương, mong Thiên vương biết cho, hạ thần đã huấn luyện xong, bây giờ ngựa báu sẽ theo ý Thiên vương!”
Này A-nan, khi ấy Vua Đại Thiên muốn thí nghiệm ngựa báu, vào buổi sáng sớm, lúc mặt trời mọc, đi đến chỗ ngựa, cưỡi lên, chạy khắp cả cõi đất cho đến đại hải, rồi tức tốc trở lại bản thành của vua. Vua Đại Thiên đã thành tựu ngựa báu sắc xanh như vậy.
Này A-nan, Vua Đại Thiên ấy thành tựu châu báu như thế nào? Lúc vua Đại Thiên có châu báu thì châu báu ấy trong suốt tự nhiên, không do ai tạo, tám cạnh không bẩn, được mài rất đẹp, được xâu qua bằng sợi dây ngũ sắc: Xanh, vàng, đỏ, trắng, đen.
Này A-nan, lúc Vua Đại Thiên ở trong cung điện, muốn có ánh sáng, liền dùng châu báu. Thuở ấy, lúc Vua Đại Thiên muốn thí nghiệm châu báu, liền cho tụ tập bốn loại quân, là tượng quân, mã quân, xa quân, bộ quân. Sau khi tụ tập bốn loại quân xong, vào lúc đêm tối, vua cho dựng một lá cờ cao, cho đặt ngọc báu trên ấy rồi đến viên quán để nhìn. Ánh sáng của ngọc chiếu khắp bốn loại quân, soi sáng đến nửa do-diên. Vua Đại Thiên đã thành tựu ngọc báu như vậy.
Này A-nan, Vua Đại Thiên thành tựu nữ báu như thế nào? Này A-nan, lúc Vua Đại Thiên có nữ báu thì nữ báu ấy có thân thể trong trắng, tinh khiết, nõn nà, sắc đẹp hơn người, không thua tiên nữ; tư dung đoan chánh, ai nhìn cũng cảm thấy khoan khoái; miệng tỏa mùi hương sen xanh thơm phức; các lỗ chân lông trên thân toát mùi hương chiên-đàn; về mùa đông thì thân ấm áp, về mùa hạ thì thân mát mẻ. Nữ báu ấy hết lòng hầu hạ nhà vua, nói năng hòa nhã, làm việc nhanh chóng, thông minh trí tuệ, hoan hỷ làm việc lành. Nữ báu ấy nghĩ đến nhà vua, tâm thường không rời, huống nữa thân và miệng. Vua Đại Thiên đã thành tựu nữ báu như vậy.
Này A-nan, vua Đại Thiên ấy thành tựu cư sĩ báu như thế nào? Này A-nan, lúc Vua Đại Thiên có cư sĩ thì cư sĩ ấy giàu có cùng tột, của cải vô lượng, có nhiều súc vật chăn nuôi, phong hộ thực ấp đầy đủ mọi thứ; có phước báo nên được thiên nhãn, thấy các kho báu, có hay không đều thấy rõ, thấy có người thủ hộ hay không người thủ hộ; kho vàng, kho bạc do người tạo hay không do người tạo, đều thấy rõ cả. A-nan, cư sĩ báu ấy đến trước Vua Đại Thiên tâu rằng:
“Tâu Thiên vương, nếu muốn được vàng và bạc báu thì Thiên vương chớ buồn, vì hạ thần tự biết đúng thời!”
A-nan, thuở ấy, lúc Vua Đại Thiên muốn thí nghiệm cư sĩ báu, vua cho chèo thuyền ra giữa sông Hằng và bảo rằng: “Này cư sĩ, ta muốn được vàng và bạc báu!” Cư sĩ tâu rằng:
“Tâu Thiên vương, hãy cho thuyền cập bến!” Bấy giờ, Vua Đại Thiên bảo:
“Này cư sĩ, ta muốn được ở chính giữa sông này, ta muốn được ở chính giữa sông này.”
Cư sĩ tâu:
“Tâu Thiên vương, hãy cho thuyền ngừng lại!”
Này A-nan, bấy giờ cư sĩ báu đến trước mũi thuyền, quỳ xuống, thọc tay vào trong nước lấy lên bốn kho tàng, kho vàng, kho tiền, do tạo dựng hay không do tạo dựng rồi tâu:
“Tâu Thiên vương, xin tùy ý muốn, Thiên vương tha hồ sử dụng, sử dụng xong, còn bao nhiêu thì trả lại dưới sông!” Vua Đại Thiên đã thành tựu cư sĩ báu như vậy.
Này A-nan, Vua Đại Thiên thành tựu tướng quân báu như thế nào? Này A-nan, lúc Vua Đại Thiên có tướng quân báu thì tướng quân báu ấy thông minh, trí tuệ, biện tài, nói hay, hiểu biết rộng. Tướng quân báu sẽ thay Vua Đại Thiên thực hiện những mục đích đời này, mục đích đời sau, khuyến khích xây dựng. Tướng quân báu ấy sẽ vì Vua Đại Thiên, nếu muốn tập trung các quân là tập trung được, muốn giải tán là giải tán ngay, làm cho binh lính thuộc bốn loại quân không mệt mỏi và khuyến khích giúp đỡ họ. Đối với các cận thần khác cũng vậy. Vua Đại Thiên đã thành tựu tướng quân báu như vậy.
Này A-nan, vua Đại Thiên đã thành tựu bảy báu như vậy đấy.
Này A-nan, Vua Đại Thiên ấy được phước đức của người có bốn thứ như ý như thế nào? Vua Đại Thiên ấy sống thật lâu dài đến tám vạn bốn ngàn năm, làm đồng tử vui đùa đến tám vạn bốn ngàn năm, làm vua nước nhỏ đến tám vạn bốn ngàn năm, làm vua nước lớn đến tám vạn bốn ngàn năm, rồi cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà-sa, chí tín, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất gia học đạo, học Tiên nhơn vương, tu hành Phạm hạnh tại Di-tát-la này, trú trong rừng Đại Thiên Nại Lâm.
Này A-nan, nếu Vua Đại Thiên sống thật lâu dài đến tám vạn bốn ngàn năm, làm đồng tử vui đùa đến tám vạn bốn ngàn năm, làm vua nước nhỏ đến tám vạn bốn ngàn năm, làm vua nước lớn đến tám vạn bốn ngàn năm, rồi cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà-sa, chí tín, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất gia học đạo, học Tiên nhơn vương, tu hành Phạm hạnh tại Di-tát-la này, trú trong rừng Đại Thiên Nại Lâm thì đó chính là đức như ý thứ nhất của Vua Đại Thiên.
Lại nữa, này A-nan, Vua Đại Thiên ấy không có tật bệnh, thành tựu sự điều hòa của thực đạo, không lạnh, không nóng, an ổn, không bị bứt rứt; do đó, đồ ăn, thức uống được tiêu hóa dễ dàng. Này A-nan, nếu Vua Đại Thiên không có tật bệnh, thành tựu điều hòa của thực đạo, không lạnh, không nóng, an ổn, không bứt rứt; do đó, đồ ăn, thức uống tiêu hóa dễ dàng thì đó chính là đức như ý thứ hai của Vua Đại Thiên.
Lại nữa, này A-nan, Vua Đại Thiên có thân thể trắng trẻo, sạch sẽ, trong sáng, sắc đẹp hơn người, không kém thiên thần, đoan chánh đẹp đẽ, ai nhìn cũng cảm thấy khoan khoái. Này A-nan, nếu Vua Đại Thiên có thân thể trắng trẻo, sạch sẽ, trong sáng, sắc đẹp hơn người, không kém thiên thần, đoan chánh đẹp đẽ, ai nhìn cũng cảm thấy khoan khoái thì đó chính là đức như ý thứ ba của Vua Đại Thiên.
Lại nữa, này A-nan, Vua Đại Thiên ấy thường thương tưởng đến các Phạm chí, cư sĩ như cha nghĩ đến con. Phạm chí, cư sĩ cũng kính trọng Vua Đại Thiên như con kính cha. Này A-nan, thuở ấy Vua Đại Thiên ở trong viên quán, bảo người đánh xe rằng:
“Hãy cho xe đi chậm chậm, ta muốn nhìn kỹ các Phạm chí, cư sĩ.”
Phạm chí, cư sĩ cũng bảo người đánh xe:
“Hãy cho xe đi chậm chậm, chúng tôi muốn nhìn kỹ đức Vua Đại Thiên!”
Này A-nan, nếu Vua Đại Thiên thường thương tưởng đến các Phạm chí, cư sĩ như cha nghĩ đến con; còn Phạm chí, cư sĩ lại kính trọng vua Đại Thiên như con kính cha thì đó chính là đức như ý thứ tư của Vua Đại Thiên.
Này A-nan, Vua Đại Thiên được phước đức của người có bốn thứ như ý như vậy đấy.
Này A-nan, một thời gian sau, Vua Đại Thiên ấy bảo thợ hớt tóc rằng:
“Nếu ngươi thấy đầu ta mọc tóc bạc thì cho ta hay.”
Bấy giờ, thợ hớt tóc vâng lời vua bảo, một thời gian sau đó, gội đầu cho vua, thấy mọc tóc bạc, liền tâu:
“Tâu Thiên vương, mong Thiên vương biết cho, thiên sứ đã đến, đầu đã mọc tóc bạc!”
Vua Đại Thiên ấy lại bảo thợ hớt tóc:
“Ngươi lấy nhíp bằng vàng, từ từ nhổ tóc bạc bỏ vào bàn tay ta!”
Lúc đó, thợ hớt tóc nghe vua bảo liền lấy cái nhíp bằng vàng, từ từ nhổ tóc bạc bỏ vào bàn tay vua. Này A-nan, Vua Đại Thiên, tay bưng tóc bạc, nói bài tụng:
Đầu ta mọc tóc bạc, Thọ mạng đến hồi suy,
Thiên sứ đã đến rồi, Nay lúc ta học đạo.
Này A-nan, sau khi thấy tóc bạc, Vua Đại Thiên bảo thái tử:
“Này Thái tử, hãy biết rằng thiên sứ đã đến, đầu ta đã mọc tóc bạc. Này Thái tử, ta đã được thú vui thế gian, nay lại muốn cầu thú vui thiên thượng. Thái tử, ta muốn cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà-sa, chí tín, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất gia học đạo. Thái tử, nay ta đem bốn châu thiên hạ này phó thác cho con. Con hãy cai trị và giáo hóa đúng như pháp, chớ dùng phi pháp, không để cho trong nước có những người tạo ác nghiệp, phi Phạm hạnh.
Này Thái tử, về sau, nếu con thấy thiên sứ đến, đầu mọc tóc bạc thì con nên đem việc quốc chính của nước mà trao lại cho con của con, khéo dạy bảo và trao đất nước lại cho nó, rồi con cũng nên cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà-sa, chí tín, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất gia học đạo. Này Thái tử, nay ta chuyển giao pháp kế thừa này cho con. Con cũng phải chuyển giao lại pháp kế thừa này, chớ để cho nhân dân phải sống như ở biên địa.
Này Thái tử, tại sao nay ta chuyển giao pháp kế thừa này cho con, bảo con cũng phải chuyển giao pháp kế thừa này, chớ để cho nhân dân phải sống như ở biên địa?
Này Thái tử, nếu trong nước này sự truyền trao bị dứt tuyệt, không được tiếp nối thì đó là nhân dân phải sống thành biên địa. Vì thế cho nên, này Thái tử, nay ta chuyển giao cho con.
Này Thái tử, ta đã chuyển giao pháp kế thừa này cho con thì con cũng phải chuyển giao pháp kế thừa ấy, chớ để cho nhân dân phải sống thành biên địa.”
Này A-nan, Vua Đại Thiên ấy đem việc quốc chính của nước này phó thác cho thái tử, khéo dạy bảo xong, liền cạo râu bỏ tóc, mặc áo cà-sa, chí tín, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất gia học đạo, học Tiên nhơn vương, tu hành Phạm hạnh tại Di-tát-la này, trú trong rừng Đại Thiên Nại Lâm.
Thái tử ấy cũng là Chuyển Luân Vương, thành tựu bảy báu, được phước đức của một người có bốn thứ như ý. Thành tựu bảy báu và được phước đức của một người có bốn thứ như ý như thế nào? Bảy báu và được phước đức của một người có bốn thứ như ý thì như đã nói ở trước đây.
Này A-nan, vị Chuyển Luân Vương ấy về sau cũng bảo thợ hớt tóc rằng:
“Nếu ngươi thấy đầu ta mọc tóc bạc thì cho ta hay.”
Từ đó, thợ hớt tóc vâng lời vua bảo, nên một thời gian sau, lúc gội đầu nhà vua, thấy đã mọc tóc bạc, bèn tâu:
“Tâu Thiên vương, mong Thiên vương biết cho, thiên sứ đã đến, đầu đã mọc tóc bạc.”
Vị Chuyển Luân Vương ấy lại bảo thợ hớt tóc:
“Ngươi hãy lấy nhíp bằng vàng, từ từ nhổ tóc bạc bỏ vào trong bàn tay ta.”
Nghe lời của vua, thợ hớt tóc liền lấy nhíp bằng vàng, từ từ nhổ tóc bạc bỏ vào bàn tay vua. Này A-nan, vua Chuyển Luân Vương ấy, tay bưng tóc bạc, đọc bài tụng rằng:
Đầu ta mọc tóc bạc, Thọ mạng đến hồi suy,
Thiên sứ đã đến rồi, Nay lúc ta học đạo.
Này A-nan, vị Chuyển Luân Vương ấy, sau khi thấy tóc bạc, bảo thái tử rằng:
“Này Thái tử, nên biết, thiên sứ đã đến, đầu ta đã mọc tóc bạc. Thái tử, ta đã được thú vui thế gian, nay muốn cầu thú vui thiên thượng. Này Thái tử, ta muốn cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà-sa, chí tín, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất gia học đạo. Ta nay đem bốn châu thiên hạ phó thác cho con, con hãy cai trị, giáo hóa đúng như pháp, chớ dùng phi pháp, không để cho trong nước có những người tạo ác nghiệp và phi Phạm hạnh.
Này Thái tử, nếu sau này con thấy thiên sứ đến, đầu mọc tóc bạc thì con phải đem việc quốc chính của nước trao cho con của con, khéo dạy bảo và trao đất nước lại cho nó rồi, con cũng nên cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà-sa, chí tín, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất gia học đạo. Này Thái tử, nay ta chuyển giao pháp kế thừa này cho con. Con cũng phải chuyển giao lại pháp kế thừa này, chớ để nhân dân sống thành biên địa.
Này Thái tử, tại sao nay ta chuyển giao pháp kế thừa này cho con, và con cũng phải chuyển trao giao lại pháp kế thừa này, chớ để nhân dân sống thành biên địa? Vì này Thái tử, nếu trong nước này sự truyền trao bị dứt tuyệt, không được tiếp nối thì nhân dân sẽ phải sống thành biên địa. Vì thế cho nên, này Thái tử, ta đã chuyển giao pháp kế thừa này cho con thì con phải chuyển giao lại pháp kế thừa ấy, chớ để cho nhân dân phải sống thành biên địa.”
Này A-nan, vị Chuyển Luân Vương ấy đem việc quốc chính của nước ấy phó thác cho thái tử, khéo dạy bảo xong, liền cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà-sa, chí tín, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất gia học đạo, học Tiên nhơn vương, tu hành Phạm hạnh tại Di-tát-la này, trú trong rừng Đại Thiên Nại Lâm.
Này A-nan, đó là từ con đến con, từ cháu đến cháu, từ dòng họ đến dòng họ, từ kiến đến kiến, lần lượt đến tám vạn bốn ngàn vị Chuyển Luân Vương cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà-sa, chí tín, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất gia học đạo, học với Tiên nhơn vương, tu hành Phạm hạnh tại Di-tát-la này, trú trong rừng Đại Thiên Nại Lâm.
Vị vua sau cùng tên là Ni-di, là một Pháp vương như pháp, thực hành pháp đúng như pháp, là vị vua vì thái tử, hậu phi, thể nữ và các thần dân, Sa-môn, Phạm chí, cho đến côn trùng mà phụng trì trai giới trong những ngày mùng tám, mười bốn, mười lăm; tu hạnh bố thí, bố thí cho những kẻ nghèo khổ, Sa-môn, Phạm chí; những người cô độc từ các phương xa đến xin, đem đồ ăn, thức uống, áo, mền, xe cộ, tràng hoa, bột hoa, bột hương, nhà cửa, giường nệm, đệm lông, khăn quấn, đèn dầu cung cấp cho họ.
Bấy giờ, chư thiên ở cõi trời Tam Thập Tam thiên tụ tập, ngồi tại giảng đường Thiện Pháp hết lời xưng tán Vua Ni-di như thế này: “Chư Hiền, người xứ Bệ-đà-đề có đại thiện lợi, có đại công đức. Vì sao? Vì vua cuối cùng là Nidi, một Pháp vương như pháp, thực hành pháp đúng như pháp, là bậc đã vì thái tử, hậu phi, thể nữ và các thần dân, Sa-môn, Phạm chí, cho đến loài côn trùng mà phụng trì trai giới trong những ngày mùng tám, mười bốn và mười lăm; tu hạnh bố thí, bố thí cho những kẻ nghèo khổ, Sa-môn, Phạm chí; những người cô độc từ các phương xa đến xin, đem các đồ ăn, thức uống, áo, mền, xe cộ, tràng hoa, bột hoa, bột hương, nhà cửa, giường nệm, đệm lông, khăn quấn, đèn dầu cung cấp cho họ.”
Bấy giờ, Thiên Đế-thích cũng có trong chúng. Lúc ấy, Thiên Đế-thích bảo chư thiên ở cõi Tam Thập Tam thiên rằng:
“Chư Hiền, các vị có muốn đến ngay tại nơi ấy, để yết kiến Vua Ni-di không?
Chư thiên cõi Tam Thập Tam thiên đáp:
“Này Câu-dực, chúng tôi muốn được đến ngay nơi ấy để yết kiến Vua Ni-di.”
Bấy giờ, trong khoảnh khắc giống như thời gian lực sĩ co duỗi cánh tay, Thiên Đế-thích ở trên cõi Tam Thập Tam thiên bỗng biến mất không thấy, và hiện ra ở cung điện Vua Ni-di.
Lúc đó, Vua Ni-di thấy Thiên Đế-thích liền hỏi:
“Ông là ai?”
Đế-thích nói:
“Đại vương có nghe đến Thiên Đế-thích không?”
“Có nghe tên Đế-thích.”
“Chính là tôi vậy. Đại vương có đại thiện lợi, có đại công đức. Vì sao? Vì chư thiên ở cõi Tam Thập Tam thiên tụ tập tại giảng đường Thiện Pháp, hết lời xưng tán Đại vương như thế này: “Chư Hiền, người xứ Bệ-đà-đề có đại thiện lợi, có đại công đức. Vì sao? Vì đức vua sau cùng tên là Ni-di, một vị Pháp vương như pháp, thực hành pháp đúng như pháp, một bậc đã vì thái tử, hậu phi, thể nữ và các thần dân, Sa-môn, Phạm chí, cho đến loài côn trùng mà phụng trì trai giới trong những ngày mùng tám, mười bốn, mười lăm; tu hạnh bố thí, bố thí cho những kẻ nghèo khổ, Sa-môn, Phạm chí; những người cô độc từ các phương xa đến xin, đem đồ ăn, thức uống, áo, mền, xe cộ, tràng hoa, bột hoa, bột hương, nhà cửa, giường nệm, đệm lông, khăn quấn, đèn dầu cung cấp cho họ.” Đại vương có muốn xem cõi Tam Thập Tam thiên không? “Muốn xem!”
Thiên Đế-thích lại bảo Vua Ni-di:
“Tôi sẽ trở lại cõi trời, ra lệnh trang hoàng xa giá với một ngàn voi kéo để Đại vương cưỡi lên du lãm, thưởng ngoạn cõi trời.”
Bấy giờ, Vua Ni-di im lặng nhận lời Thiên Đế-thích. Thiên Đế-thích biết Vua Ni-di đã im lặng nhận lời, trong khoảnh khắc giống như thời gian lực sĩ duỗi cánh tay, biến mất, không thấy ở cung điện Vua Ni-di, và đã trở lại cõi Tam Thập Tam thiên kia. Sau khi trở về, Thiên Đế-thích bảo người đánh xe:
“Ngươi hãy mau trang hoàng xa giá với một ngàn voi kéo, đến đón Vua Nidi. Sau khi đến, ngươi thưa: ‘Đại vương nên biết, Thiên Đế-thích bảo đem xe ngàn voi này đến đón, Đại vương có thể cưỡi xe này lên du lãm, thưởng ngoạn ở cõi trời.’ Sau khi Vua Ni-di đã lên xe, ngươi lại thưa: ‘Đại vương muốn tôi đưa đi theo đường nào? Theo đường ác thọ ác báo, hay theo đường diệu thọ diệu báo?’”
Bấy giờ, người đánh xe vâng lệnh Thiên Đế-thích, trang hoàng xa giá có ngàn con voi kéo, đi đến chỗ Vua Ni-di. Đến rồi thưa:
“Đại vương nên biết, Thiên Đế-thích sai đem xa giá có ngàn voi kéo để nghênh đón Đại vương. Đại vương có thể ngồi xe này lên du lãm, thưởng ngoạn trên cõi trời.”
Lúc Vua Ni-di lên xe xong, người đánh xe lại thưa:
“Đại vương muốn tôi đi theo đường nào? Theo đường ác thọ ác báo, hay theo đường diệu thọ diệu báo?
Bấy giờ, Vua Ni-di bảo người đánh xe:
“Ngươi hãy đưa ta đi giữa hai đường, ác thọ ác báo và diệu thọ diệu báo.
Lúc đó, người đánh xe liền đưa vua đi giữa hai đường, ác thọ ác báo và diệu thọ diệu báo. Từ xa, chư thiên cõi Tam Thập Tam thiên trông thấy Vua Ni-di đi đến; sau khi trông thấy, họ liền chúc lành rằng:
“Kính chào Đại vương! Kính chào Đại vương! Đại vương có thể ở lại để cùng vui thú với Tam Thập Tam thiên chúng tôi.”
Lúc ấy, Vua Ni-di nói bài tụng cho chư thiên Tam Thập Tam thiên:
Giống như kẻ cưỡi nhờ, Nhứt thời tạm dùng xe,
Nơi đây cũng như vậy, Vì là của kẻ khác.
Ta về Di-tát-la, Sẽ làm vô lượng thiện,
Nhân đó sanh cõi trời, Tạo phước làm tư lương.
Này A-nan, Vua Đại Thiên thuở xưa ấy, thầy cho là ai khác chăng? Chớ nghĩ như vậy! Nên biết vị ấy chính là Ta. Này A-nan, thuở xưa Ta từ đời con đến đời con, từ đời cháu đến đời cháu, từ dòng họ đến dòng họ, từ Ta lần lượt có tám vạn bốn ngàn vị Chuyển Luân Vương, từng cạo bỏ râu tóc, mặc áo càsa, chí tín, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất gia học đạo, học Tiên nhơn vương, tu hành Phạm hạnh tại Di-tát-la này, trú trong rừng Đại Thiên Nại Lâm. Bấy giờ, Ta tự làm lợi ích cho mình, cũng làm lợi ích cho kẻ khác, làm lợi ích cho mọi người; Ta thương xót thế gian, vì trời, vì người mà cầu nghĩa và lợi ích, cầu an ổn, khoái lạc. Bấy giờ, Ta thuyết pháp chưa đến chỗ rốt ráo, chưa rốt ráo bạch tịnh, chưa rốt ráo Phạm hạnh. Vì không rốt ráo Phạm hạnh, lúc ấy ta không lìa bỏ sự sanh, tuổi già, tật bệnh, sự chết, khóc than, ảo não, cũng chưa thể thoát ra ngoài mọi khổ đau.
Này A-nan, nay Ta là bậc Xuất Thế, là Như Lai, bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, Thiên Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhơn Sư, Phật, Chúng Hựu. Nay Ta làm lợi ích cho mình, cũng làm lợi ích cho người khác, làm lợi ích cho mọi người; Ta thương xót thế gian, vì trời, vì người mà cầu nghĩa và lợi ích, cầu an ổn, khoái lạc. Nay Ta thuyết pháp được đạt đến chỗ rốt ráo bạch tịnh, rốt ráo Phạm hạnh. Vì đã rốt ráo Phạm hạnh, nay Ta lìa khỏi sự sanh, tuổi già, bệnh tật, sự chết, khóc than, ảo não, nay Ta đã thoát mọi khổ đau.
Này A-nan, nay Ta chuyển trao pháp kế thừa cho thầy, thầy cũng phải chuyển trao lại pháp kế thừa này, chớ để cho Phật chủng đứt đoạn. A-nan, thế nào là pháp kế thừa mà nay Ta chuyển trao cho thầy, và bảo thầy cũng phải chuyển trao lại pháp kế thừa ấy, chớ để cho Phật chủng đứt đoạn? Đó là Thánh đạo tám ngành, từ chánh kiến cho đến chánh định là tám. Này A-nan, đó chính là pháp kế thừa mà nay Ta chuyển trao cho thầy, và thầy cũng phải chuyển trao lại pháp kế thừa ấy, chớ để cho Phật chủng đứt đoạn.
Đức Phật dạy như vậy, Tôn giả A-nan và các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật dạy xong, hoan hỷ phụng hành.
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.