Viện Nghiên Cứu Phật Học

Tam tạng Thánh điển PGVN 18 » Tam tạng Phật giáo Bộ phái 02 » 

Kinh Trung A-Hàm
(中阿含經)

Dịch tiếng Việt: VIỆN CAO ĐẲNG PHẬT HỌC HẢI ĐỨC - NHA TRANG
Hiệu đính: Hòa Thượng THÍCH THIỆN SIÊU

Mục Lục

66. KINH THUYẾT BỔN

Tôi nghe như vầy:

Một thời, đức Phật du hóa tại Ba-la-nại, ở trú xứ tiên nhơn, trong vườn Lộc Dã.

Bấy giờ, các Tỳ-kheo, sau bữa ăn trưa, vì một nhân duyên nhỏ nên tụ tập, ngồi tại giảng đường để cùng bàn luận vấn đề này:

- Thế nào chư Hiền, trong hàng cư sĩ tại gia, ai là người thù thắng? Phải chăng là người được các Tỳ-kheo trì giới Diệu pháp, thành tựu oai nghi đến nhà thọ thực? Hay người mà hàng ngày lợi lộc tăng gấp trăm ngàn vạn lần?

Hoặc có Tỳ-kheo nói rằng:

- Này chư Hiền, lợi lộc gấp trăm ngàn vạn lần thì có nghĩa gì? Chỉ có điều này là chí yếu, là được vị Tỳ-kheo trì giới Diệu pháp, thành tựu oai nghi đến nhà thọ thực; chứ không phải là ngày ngày được tăng lợi lộc gấp trăm ngàn vạn lần.

Lúc đó, Tôn giả A-na-luật-đà cũng ngồi tại trong chúng. Và Tôn giả A-naluật-đà nói với các Tỳ-kheo rằng:

Này chư Hiền, lợi lộc tăng gấp trăm ngàn vạn lần và giả sử có nhiều hơn nữa thì có nghĩa gì? Chỉ có điều này là chí yếu, là được một Tỳ-kheo trì giới Diệu pháp, thành tựu oai nghi đến nhà thọ thực; chứ không phải ngày ngày lợi lộc tăng gấp trăm ngàn vạn lần. Vì sao? Tôi nhớ thuở trước, tôi là người nghèo khổ ở nước Ba-la-nại này, chỉ nhờ nhặt lượm, gánh thuê mà sống. Lúc ấy, nước Ba-la-nại bị hạn hán, sương móc và sâu rầy làm cho ngũ cốc không thể chín được. Nhân dân túng thiếu, kiếm xin khó được. Bấy giờ, có một vị Bích-chi Phật hiệu là Vô Hoạn cũng trú tại Ba-la-nại này. Lúc ấy, vào buổi sáng sớm, vị Bích-chi Phật Vô Hoạn mang y, cầm bát đi vào Ba-la-nại để khất thực. Này chư Hiền, lúc đó tôi đang đi ra khỏi Ba-la-nại, vào lúc sáng sớm để nhặt lượm... Lúc đang đi ra, từ xa tôi thấy vị Bích-chi Phật Vô Hoạn đi vào. Lúc Bích-chi Phật Vô Hoạn cầm tịnh bát đi vào thế nào thì lúc đi ra tịnh bát vẫn y như cũ. Này chư Hiền, sau khi nhặt lượm... và trở về Ba-la-nại, tôi lại thấy Bích-chi Phật Vô Hoạn đi ra. Ngài thấy tôi, liền nghĩ: “Sáng sớm, lúc Ta đi vào thì thấy người này đi ra, bây giờ Ta đi ra, lại thấy người này trở vào. Người này có thể chưa ăn. Nay Ta nên đi theo người này.” Rồi Bích-chi Phật đi theo tôi như bóng theo hình. Này chư Hiền, khi tôi mang quảy gánh về đến nhà, bỏ gánh xuống và quay lại nhìn, vẫn thấy Bích-chi Phật Vô Hoạn đi theo sau tôi như bóng theo hình. Tôi thấy Ngài, liền suy nghĩ: “Sáng sớm, lúc đi ra, ta thấy vị Tiên nhơn này đi vào thành khất thực; bây giờ, vị Tiên nhơn này có lẽ chưa ăn, ta nên đem phần ăn của mình để cúng dường cho vị Tiên nhơn này.” Nghĩ như vậy xong, tôi mang phần cơm bố thí cho vị Bích-chi Phật và bạch:

“Mong Tiên nhơn biết cho, cơm này làm phần ăn của con, vì lòng từ mẫn, mong Ngài xót thương thọ nhận!”

Bấy giờ, vị Bích-chi Phật đáp: “Cư sĩ nên biết, năm nay hạn hán, sương móc và sâu rầy làm cho ngũ cốc không chín được, nhân dân túng thiếu, kiếm xin khó được. Thí chủ chỉ nên bớt phần nửa bỏ vào bát Ta và dùng phần nửa kia để cho cả hai đều được sống còn. Như vậy đã là tốt rồi.”

Tôi lại thưa: “Mong Tiên nhơn biết cho, trong nhà con sẵn có chảo, có bếp, có củi, có thóc gạo, ăn uống sớm muộn cũng chẳng cần đúng giờ khắc! Tiên nhơn hãy thương con mà nhận hết thức ăn này!”

Bấy giờ, Bích-chi Phật vì lòng từ mẫn nên đã nhận hết thức ăn.

Này chư Hiền, tôi nhờ phước bố thí cho Ngài một bát cơm mà bảy lần tái sanh vào cõi trời, được làm Thiên chủ; bảy lần tái sanh vào loài người, lại làm bậc Nhân chủ.

Này chư Hiền, tôi nhờ phước bố thí cho Ngài một bát cơm mà được sanh vào dòng họ Thích như thế này, giàu có cùng tột, súc vật chăn nuôi vô số, phong hộ, thực ấp, của cải vô lượng, châu báu đầy đủ.

Này chư Hiền, tôi nhờ phước bố thí cho Ngài một bát cơm nên xả bỏ vương vị, trăm ngàn thể nữ, vàng bạc để xuất gia học đạo.

Này chư Hiền, tôi nhờ phước bố thí cho Ngài một bát cơm mà được vua quan, Phạm chí, cư sĩ và tất cả nhân dân thấy là tiếp đãi; bốn chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc và ưu-bà-di thấy cũng đều kính trọng.

Này chư Hiền, tôi nhờ phước bố thí cho Ngài một bát cơm mà thường được người thỉnh cầu thọ nhận đồ ăn, thức uống, áo, mền, chăn, chiếu dệt bằng lông năm sắc, giường nệm, thuốc thang trị bệnh và các dụng cụ cần cho sự sống, không gì là không được thỉnh cầu. Lúc bấy giờ, nếu tôi biết vị Sa-môn ấy là bậc Vô trước Chân nhân thì phước báo có được chắc chắn sẽ tăng gấp bội, thọ nhận được quả báo lớn và công đức hết sức kỳ diệu, sáng chiếu rộng lớn, thấu suốt cùng khắp.

Bấy giờ, Tôn giả A-na-luật-đà, bậc Vô trước Chân nhân đã được chánh giải thoát, nói bài tụng rằng:

           Ta nhớ xưa nghèo nàn, 

Chỉ nhặt cỏ mà sống,

           Bớt phần cúng Sa-môn, 

Vô Hoạn tối thượng đức.

           Nhân đó sanh dòng Thích, 

Tên là A-na-luật,

           Hiểu rành về ca vũ,

Làm nhạc, thường hoan hỷ.

           Ta được gặp Thế Tôn,

Chánh giác như cam lồ,

           Đã gặp sanh tín tâm, 

Bỏ nhà đi học đạo.

 

           Ta biết được đời trước, 

Biết rõ cội gốc sanh,

           Sanh Tam Thập Tam thiên, 

Bảy lần trú ở đó.

           Đó bảy, đây cũng bảy, 

Thọ sanh mười bốn lần,

           Nhân gian và thiên thượng, 

Chưa từng đọa ác đạo.

           Nay biết rõ sanh tử, 

Nơi chúng sanh qua lại,

           Biết tâm người thị phi, 

Hiền thánh, năm lạc thú.

           Chứng năm chi thiền định, 

Thường định tám tĩnh mặc,

           Đã chứng đắc tịch tĩnh, 

Liền đắc tịnh thiên nhãn.

           Mục đích mà học đạo, 

Viễn ly, bỏ gia đình,

           Nay ta đạt nghĩa ấy, 

Được vào cảnh giới Phật.

           Ta không ưa sự tử, 

Cũng chẳng mong sự sanh,

           Thời nào cũng tự tại, 

Kiến lập trí chánh niệm.

           Tỳ-da-ly, Trúc Lâm, 

Ở đây, mạng ta dứt,

           Ngay dưới rừng trúc này, 

Nhập Vô dư Niết-bàn.

Bấy giờ, đức Thế Tôn ở chỗ tĩnh tọa, bằng thiên nhĩ thanh tịnh vượt xa người thường, nghe các Tỳ-kheo, sau bữa ăn trưa, tụ tập tại giảng đường cùng bàn luận vấn đề ấy. Nghe xong, vào lúc xế trưa, đức Thế Tôn từ chỗ tĩnh tọa đứng dậy, đi đến giảng đường, trải chỗ ngồi trước chúng Tỳ-kheo mà ngồi, rồi hỏi:

- Này các Tỳ-kheo, hôm nay vì chuyện gì mà tụ tập tại giảng đường?

Các Tỳ-kheo đáp:

- Bạch đức Thế Tôn, hôm nay nhân chuyện quá khứ mà Tôn giả A-na-luậtđà thuyết pháp nên chúng con tụ tập, ngồi tại giảng đường.

Đức Thế-Tôn bảo:

- Bây giờ, các thầy có muốn nghe nhân chuyện vị lai mà thuyết pháp chăng?

Các Tỳ-kheo đáp:

- Bạch đức Thế Tôn, nay thật đúng thời! Bạch đức Thiện Thệ, nay thật đúng thời! Nếu Thế Tôn nhân chuyện vị lai mà thuyết pháp cho chúng Tỳ-kheo thì sau khi nghe, chúng con xin khéo thọ trì.

Đức Thế Tôn bảo:

- Này các thầy, hãy lắng nghe và khéo thọ trì, Ta sẽ phân biệt, giải thích rộng rãi cho các thầy!

Bấy giờ, các Tỳ-kheo vâng lời ngồi nghe. Đức Thế Tôn dạy:

- Này các Tỳ-kheo, một thời gian lâu xa ở vị lai, sẽ có lúc nhân dân sống đến tám vạn tuổi. Lúc con người sống đến tám vạn tuổi thì châu Diêm-phù-đề này giàu có, an lạc tột cùng, dân chúng đông đúc, thôn ấp gần nhau chỉ bằng khoảng cách của con gà bay. Này các Tỳ-kheo, lúc con người sống đến tám vạn tuổi thì con gái năm trăm tuổi mới lấy chồng. Này các Tỳ-kheo, lúc con người sống đến tám vạn tuổi thì chỉ có những bệnh như thế này, là nóng lạnh, đại tiểu tiện, muốn ăn uống và già, ngoài ra không có tai họa nào khác. Này các Tỳkheo, lúc con người sống đến tám vạn tuổi thì có vua tên là Loa, làm Chuyển Luân Vương, thông minh trí tuệ và có bốn loại quân chỉnh trị thiên hạ, tự do tự tại, là Pháp vương theo đúng pháp, thành tựu bảy báu. 

Bảy báu ấy là xe báu, voi báu, ngựa báu, ngọc báu, nữ báu, cư sĩ báu và tướng quân báu. Đó là bảy báu. Nhà vua có đầy đủ một ngàn người con trai, dung mạo khôi ngô, dũng mãnh, không sợ hãi, có thể hàng phục được người khác. Nhà vua thống lãnh quả đất này cho đến biển cả, không dùng đao gậy, chỉ đem pháp giáo hóa khiến dân chúng an lạc. Lại có cây phướn bằng vàng to lớn, được trang hoàng bằng các thứ châu báu, treo cao một ngàn khuỷu tay, chu vi mười sáu khuỷu tay, do nhà vua sai dựng lên. Sau khi dựng xong, hạ xuống, nhà vua tổ chức bố thí cho Sa-môn, Phạm chí, người nghèo khổ, cô độc từ các phương xa đến xin, với đồ ăn thức uống, áo, mền, xe cộ, tràng hoa, bột hoa, bột hương, nhà cửa, giường nệm, đệm lông, khăn quấn và đèn dầu. Sau khi bố thí như vậy, nhà vua cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà-sa, chí tín, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất gia học đạo, chỉ cầu chứng đắc vô thượng Phạm hạnh ngay trong đời này mà tự tri, tự giác, tự thân chứng ngộ, thành tựu và an trú, biết như thật rằng: “Sự sanh đã dứt, Phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa.”

Bấy giờ, có Tôn giả A-di-đa ngồi ở trong chúng. Tôn giả A-di-đa từ chỗ ngồi đứng dậy, kéo lệch vai áo đang mặc, chắp tay hướng về đức Phật, bạch rằng:

Bạch Thế Tôn, một thời gian lâu dài ở vị lai, lúc con người sống đến tám vạn tuổi, con có thể được làm vua, hiệu là Loa, một Chuyển Luân Vương thông minh, trí tuệ, có bốn loại quân, chỉnh trị thiên hạ, tự do tự tại, là vị Pháp vương theo đúng pháp, thành tựu bảy báu. Bảy báu là xe báu, voi báu, ngựa báu, ngọc báu, nữ báu, cư sĩ báu, tướng quân báu. Đó là bảy báu. Con có đủ một ngàn người con, dung mạo khôi ngô, dũng mãnh không sợ, hàng phục được kẻ khác. Con thống lãnh trọn quả đất này cho đến biển cả, không dùng đao gậy, chỉ đem pháp giáo hóa khiến cho nhân dân an lạc. Con có cây phướn lớn bằng vàng, được trang hoàng bằng các loại châu báu, treo cao một ngàn khuỷu tay, chu vi mười sáu khuỷu tay, do con dựng lên. Sau khi dựng xong lại hạ xuống, tổ chức bố thí cho hàng Sa-môn, Phạm chí, kẻ khốn khổ, cô độc từ các phương xa đến xin, đem đồ ăn thức uống, áo, mền, xe cộ, tràng hoa, bột hoa, bột hương, nhà cửa, giường nệm, đệm lông, khăn quấn và cung cấp đèn dầu. Sau khi bố thí xong, con liền cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà-sa, chí tín, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất gia học đạo. Con, một thiện nam tử, sở dĩ cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà-sa, chí tín, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất gia học đạo, chỉ vì mục đích cầu đắc vô thượng Phạm hạnh, ngay trong đời hiện tại này tự tri, tự giác, tự thân chứng đắc, thành tựu và an trú, biết như thật rằng: “Sự sanh đã dứt, Phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa.”

Bấy giờ, đức Thế Tôn quở trách Tôn giả A-di-đa rằng:

- Thầy là kẻ ngu si, chỉ nên một lần chết, sao lại mong một lần tái sanh nữa? Vì sao như thế? Vì thầy đã nghĩ rằng: “Bạch đức Thế Tôn, một thời gian dài ở vị lai, lúc con người sống đến tám vạn tuổi, con có thể được làm vua, hiệu là Loa, một Chuyển Luân Vương thông minh, trí tuệ, có bốn loại quân, chỉnh trị thiên hạ, tự do tự tại, là vị Pháp vương theo đúng như pháp, thành tựu bảy báu. Bảy báu là xe báu, voi báu, ngựa báu, ngọc báu, nữ báu, cư sĩ báu, tướng quân báu. Đó là bảy báu. Con có đủ một ngàn người con, dung mạo khôi ngô, dũng mãnh không sợ, hàng phục được kẻ khác. Con thống lãnh trọn trái đất này cho đến biển cả, không dùng đao gậy, chỉ đem pháp giáo hóa khiến cho nhân dân an lạc. Con có cây phướn lớn bằng vàng, được trang hoàng bằng các loại châu báu, treo cao một ngàn khuỷu tay, chu vi mười sáu khuỷu tay, do con dựng lên. Sau khi dựng xong lại hạ xuống, và tổ chức bố thí cho Sa-môn, Phạm chí, kẻ khốn khổ, cô độc từ các phương xa đến xin, đem đồ ăn thức uống, áo, mền, xe cộ, tràng hoa, bột hoa, bột hương, nhà cửa, giường nệm, đệm lông, khăn quấn, cung cấp đèn dầu. Sau khi bố thí xong, con liền cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà-sa, chí tín, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất gia học đạo. Con, một thiện nam tử, sở dĩ cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà-sa, chí tín, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất gia học đạo chỉ vì mục đích cầu đắc vô thượng Phạm hạnh ngay trong đời hiện tại tự tri, tự giác, tự thân chứng đắc, thành tựu và an trú, biết như thật rằng: “Sự sanh đã dứt, Phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa.”

Đức Thế Tôn bảo:

- Này A-di-đa, một thời gian lâu dài ở vị lai, thầy sẽ làm vua, hiệu là Loa, một vị Chuyển Luân Vương thông minh, trí tuệ, có bốn loại quân, chỉnh trị thiên hạ, tự do tự tại, là vị Pháp vương theo đúng như pháp, thành tựu bảy báu. Bảy báu ấy là xe báu, ngựa báu, voi báu, ngọc báu, nữ báu, cư sĩ báu, tướng quân báu. Đó là bảy báu. Thầy sẽ có đủ một ngàn người con, dung mạo khôi ngô, dũng mãnh không sợ, hàng phục được kẻ khác. Thầy sẽ thống lãnh toàn quả đất này cho đến biển cả, không dùng đao gậy, chỉ đem pháp giáo hóa khiến nhân dân an lạc. Thầy sẽ có một cây phướn lớn bằng vàng, được trang hoàng bằng các loại châu báu, dựng cao một ngàn khuỷu tay, chu vi mười sáu khuỷu tay do thầy dựng lên. Sau khi dựng lên rồi hạ xuống, và tổ chức bố thí cho hàng Sa-môn, Phạm chí, kẻ cùng khổ, cô độc từ các phương xa đến xin, đem đồ ăn thức uống, áo, mền, xe cộ, tràng hoa, bột hoa, bột hương, nhà cửa, giường nệm, đệm lông, khăn quấn, cung cấp đèn dầu. Sau khi bố thí xong, thầy liền cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà-sa, chí tín, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất gia học đạo. Thầy, một thiện nam tử, sở dĩ cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà-sa, chí tín, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất gia học đạo, chỉ vì mục đích cầu đắc vô thượng Phạm hạnh, ngay trong đời hiện tại tự tri, tự giác, tự thân chứng đắc, thành tựu và an trú, biết như thật rằng: “Sự sanh đã dứt, Phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa.”

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

- Một thời gian lâu dài ở các vị lai, lúc con người sống đến tám vạn tuổi, sẽ có đức Phật hiệu Di-lặc Như Lai, Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhơn Sư, Phật, Chúng Hựu; cũng như hôm nay Ta đã thành Như Lai, Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhơn Sư, Phật, Chúng Hựu.

Đức Di-lặc Như Lai ở đời ấy, giữa chư Thiên, Ma, Phạm, Sa-môn, Phạm chí, từ loài người cho đến loài trời mà tự tri, tự giác, tự thân chứng đắc, thành tựu và an trú; cũng như hôm nay, Ta ở đời này, giữa chư Thiên, Ma, Phạm, Samôn, Phạm chí, từ loài người cho đến loài trời mà tự tri, tự giác, tự thân chứng đắc, thành tựu và an trú.

Ngài sẽ thuyết pháp, phần đầu vi diệu, phần giữa vi diệu và phần sau cũng vi diệu, có nghĩa, có văn đầy đủ, thanh tịnh, hiển hiện Phạm hạnh; cũng như Ta hôm nay thuyết pháp, phần đầu vi diệu, phần giữa vi diệu và phần cuối cũng vi diệu, có nghĩa, có văn đầy đủ, thanh tịnh, hiển hiện Phạm hạnh.

Ngài sẽ quảng diễn, lưu bố Phạm hạnh với những đại hội vô lượng, từ loài người cho đến loài trời, khéo phát khởi, hiển hiện; cũng như Ta hôm nay quảng diễn, lưu bố Phạm hạnh với những đại hội vô lượng, từ loài người cho đến loài trời, khéo phát khởi, hiển hiện. Ngài sẽ có vô lượng trăm ngàn chúng Tỳ-kheo; cũng như Ta hôm nay có vô lượng trăm ngàn chúng Tỳ-kheo.

Bấy giờ, có Tôn giả Di-lặc ở trong chúng ấy. Tôn giả Di-lặc từ chỗ ngồi dứng dậy, kéo lệch vai áo đang mặc, vòng tay hướng về đức Phật thưa rằng:

– Kính bạch Thế Tôn, một thời gian lâu dài ở vị lai, lúc con người sống đến tám vạn tuổi, con có thể thành Phật hiệu là Di-lặc Như Lai, Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhơn Sư, Phật, Chúng Hựu; cũng như bây giờ Thế Tôn là Như Lai, Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhơn Sư, Phật, Chúng Hựu.

Con ở đời ấy, giữa chư Thiên, Ma, Phạm, Sa-môn, Phạm chí, từ loài người cho đến loài trời mà tự tri, tự giác, tự thân chứng đắc, thành tựu an trú; cũng như đức Thế Tôn ở đời này, giữa chư Thiên, Ma, Phạm, Sa-môn, Phạm chí, từ loài người cho đến loài trời mà tự tri, tự giác, tự thân chứng đắc, thành tựu an trú.

Con sẽ thuyết pháp phần đầu vi diệu, phần giữa vi diệu và phần cuối cũng vi diệu, có nghĩa, có văn đầy đủ, thanh tịnh, hiển hiện Phạm hạnh; cũng như hiện nay đức Thế Tôn thuyết pháp, phần đầu vi diệu, phần giữa vi diệu và phần cuối cũng vi diệu, có nghĩa, có văn đầy đủ, thanh tịnh, hiển hiện Phạm hạnh.

Con sẽ quảng diễn, lưu bố Phạm hạnh với những đại hội vô lượng từ loài người cho đến loài trời, khéo phát khởi, hiển hiện; cũng như hiện giờ đức Thế Tôn quảng diễn, lưu bố Phạm hạnh với những đại hội vô lượng từ loài người cho đến loài trời, khéo phát khởi, hiển hiện.

Con sẽ có vô lượng trăm ngàn chúng Tỳ-kheo; cũng như hiện giờ đức Như Lai có vô lượng trăm ngàn chúng Tỳ-kheo.

Bấy giờ, đức Thế Tôn tán thán Tôn giả Di-lặc rằng:

- Lành thay, lành thay, Di-lặc! Thầy phát tâm thật vi diệu, là lãnh đạo đại chúng. Vì sao? Vì thầy đã nghĩ: “Bạch đức Thế Tôn, một thời gian lâu dài ở vị lai, lúc con người sống đến tám vạn tuổi, con có thể thành Phật hiệu là Di-lặc Như Lai, Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhơn Sư, Phật, Chúng Hựu; cũng như hiện giờ Thế Tôn là Như Lai, Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhơn Sư, Phật, Chúng Hựu.

Con ở đời ấy, giữa chư Thiên, Ma, Phạm, Sa-môn, Phạm chí, từ loài người đến loài trời mà tự tri, tự giác, tự thân chứng đắc, thành tựu an trú; cũng như hiện giờ đức Thế Tôn ở đời này, giữa chư Thiên, Ma, Phạm, Sa-môn, Phạm chí, từ loài người cho đến loài trời tự tri, tự giác, tự thân chứng đắc, thành tựu an trú.

Con sẽ thuyết pháp, phần đầu vi diệu, phần giữa vi diệu và phần cuối cũng vi diệu, có nghĩa, có văn đầy đủ, thanh tịnh, hiển hiện Phạm hạnh; cũng như hiện giờ đức Thế Tôn thuyết pháp, phần đầu vi diệu, phần giữa vi diệu và phần cuối cũng vi diệu, có nghĩa, có văn đầy đủ, thanh tịnh, hiển hiện Phạm hạnh.

Con sẽ quảng diễn, lưu bố Phạm hạnh với những đại hội vô lượng, từ loài người cho đến loài trời, khéo phát khởi, hiển hiện; cũng như hiện giờ Thế Tôn quảng diễn, lưu bố Phạm hạnh với những đại hội vô lượng, từ loài người cho đến loài trời, khéo phát khởi, hiển hiện.” Đức Phật lại bảo:

- Này Di-lặc, vào một thời gian lâu dài ở đời vị lai, lúc con người sống đến tám vạn tuổi, thầy sẽ thành Phật hiệu là Di-lặc Như Lai, Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhơn Sư, Phật, Chúng Hựu; cũng như Ta hiện nay là Như Lai, Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhơn Sư, Phật, Chúng Hựu. Thầy ở đời ấy, giữa chư Thiên, Ma, Phạm, Sa-môn, Phạm chí, từ loài người cho đến loài trời mà tự tri, tự giác, tự thân chứng đắc, thành tựu và an trú; cũng như Ta hiện giờ ở đời này, giữa chư Thiên, Ma, Phạm, Sa-môn, Phạm chí, từ loài người cho đến loài trời mà tự tri, tự giác, tự thân chứng đắc, thành tựu và an trú. Thầy sẽ thuyết pháp, phần đầu vi diệu, phần giữa vi diệu và phần cuối cũng vi diệu, có nghĩa, có văn đầy đủ, thanh tịnh, hiển hiện Phạm hạnh; cũng như Ta hiện giờ thuyết pháp, phần đầu vi diệu, phần giữa vi diệu và phần cuối cũng vi diệu, có nghĩa, có văn đầy đủ, thanh tịnh, hiển hiện Phạm hạnh. Thầy sẽ quảng diễn, lưu bố Phạm hạnh với những đại hội vô lượng, từ loài người cho đến loài trời, khéo phát khởi, hiển hiện; cũng như Ta hiện nay quảng diễn, lưu bố Phạm hạnh với những đại hội vô lượng, từ loài người cho đến loài trời, khéo phát khởi, hiển hiện.

Thầy sẽ có vô lượng trăm ngàn chúng Tỳ-kheo; cũng như Ta hiện nay có vô lượng trăm ngàn chúng Tỳ-kheo.

Bấy giờ, Tôn giả A-nan cầm quạt đứng hầu đức Phật. Lúc đó, đức Thế Tôn quay lại bảo:

- Này A-nan, thầy hãy lấy tơ vàng dệt thành y và mang lại, nay Ta muốn cho Tỳ-kheo Di-lặc.

Bấy giờ, Tôn giả A-nan vâng lời đức Thế Tôn, liền lấy tơ vàng dệt thành y và mang lại trao cho Ngài. Sau khi đức Thế Tôn nhận tấm y được dệt bằng chỉ vàng từ Tôn giả A-nan, Ngài bảo:

- Này Di-lặc, thầy hãy đến Như Lai, nhận tấm y được dệt bằng chỉ vàng này mà cúng dường Phật, Pháp và chúng Tăng. Lý do vì sao? Này Di-lặc, các đức Như Lai, Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, vì muốn cứu hộ thế gian mà mong cầu thiện lợi và hữu ích, mong an ổn, khoái lạc.

Bấy giờ, Tôn giả Di-lặc nhận tấm y dệt bằng chỉ vàng từ đức Như Lai xong liền cúng dường Phật, Pháp và chúng Tăng.

Lúc ấy, Ma Ba-tuần liền nghĩ: “Sa-môn Cù-đàm này du hóa tại Ba-la-nại ở trong vườn Lộc Dã, tiên nhơn đọa xứ. Vị ấy tại Ba-la-nại, ở trong vườn Lộc Dã, tiên nhơn đọa xứ. Vị ấy nhân chuyện vị lai mà thuyết pháp cho các đệ tử, ta có thể đến đấy để nhiễu loạn.” Rồi Ma Ba-tuần đi đến chỗ đức Phật, đến nơi, hướng về Ngài và nói bài tụng:

Người ấy tất sẽ được,               Dung mạo đẹp đệ nhất,

Thân tràng hoa anh lạc,            Ngọc sáng đeo cánh tay,    

Nếu ở thành Kê-đầu,                 Trong cảnh giới vua Loa.

Bấy giờ, đức Thế Tôn nghĩ rằng: “Ma Ba-tuần này đến chỗ Ta muốn gây nhiễu loạn.” Đức Thế Tôn sau khi đã biết là Ma Ba-tuần, liền nói bài tụng:

           Người ấy tất sẽ được,

Tối thắng, không nghi ngại,

           Dứt sanh, lão, bệnh, tử, 

Vô lậu, việc làm xong,

           Nếu tu hành Phạm hạnh, 

Ma Ba-tuần lại nói bài tụng:

Sẽ ở cõi Di-lặc.

           Người ấy tất sẽ được,

Y phục tối thượng diệu,

           Thân thoa trầm chiên-đàn, 

Tay chân đầy châu ngọc,

           Nếu ở thành Kê-đầu, 

Sẽ ở cõi Loa vương.

Bấy giờ, đức Thế Tôn lại nói bài tụng:

           Người ấy tất sẽ được, 

Vô chủ và vô gia,

           Tay không cầm kim bảo, 

Vô vi, không sầu não.

           Nếu tu hành Phạm hạnh, 

Lúc đó, Ma Ba-tuần lại nói bài tụng:

Sẽ ở cõi Di-lặc.

           Người kia tất sẽ được, 

Danh, tài, ẩm thực diệu,

           Khéo hiểu rành ca vũ, 

Đánh nhạc, thường hoan hỷ,

           Nếu ở thành Kê-đầu, 

Sẽ ở cõi Loa vương.

Bấy giờ, đức Thế Tôn lại nói bài tụng:

Người ấy tất qua bờ,                 Như chim phá lưới ra,

Chứng trụ thiền tự tại,               Đủ lạc, thường hoan hỷ,    

Nên biết ngươi là ma,               Mà Ta đã hàng phục.

Lúc đó, Ma vương lại nghĩ: “Thế Tôn đã biết ta, Thiện Thệ đã biết ta.” Nghĩ vậy, nó sầu não, buồn bã, không thể ở lại được, liền biến mất, không thấy ở chỗ ấy nữa.

Đức Phật dạy như vậy, các Tôn giả Di-lặc, A-di-đa, A-nan và các Tỳ-kheo nghe xong, hoan hỷ phụng hành.

 

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.