Viện Nghiên Cứu Phật Học

Tam tạng Thánh điển PGVN 18 » Tam tạng Phật giáo Bộ phái 02 » 

Kinh Trung A-Hàm
(中阿含經)

Dịch tiếng Việt: VIỆN CAO ĐẲNG PHẬT HỌC HẢI ĐỨC - NHA TRANG
Hiệu đính: Hòa Thượng THÍCH THIỆN SIÊU

Mục Lục

61. KINH NGƯU PHẤN DỤ

Tôi nghe như vầy:

Một thời, đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng Lâm, vườn Cấp Cô Độc.

Bấy giờ, có một vị Tỳ-kheo ở chỗ yên tĩnh, ngồi tư duy, suy nghĩ như vầy: “Có sắc nào thường trú, bất biến, hoàn toàn chỉ có lạc, tồn tại vĩnh viễn chăng? Có giác, tưởng, hành, thức nào thường trú, bất biến, chỉ có lạc, tồn tại vĩnh viễn chăng?”

Vào lúc xế trưa, vị Tỳ-kheo ấy từ chỗ ngồi yên tĩnh đứng dậy, đến trước đức Phật, cúi đầu đảnh lễ, rồi ngồi qua một bên và bạch:

- Bạch đức Thế Tôn, hôm nay ở chỗ yên tĩnh, con ngồi tư duy, suy nghĩ như vầy: “Có sắc nào thường trú, bất biến, hoàn toàn chỉ có lạc, tồn tại vĩnh viễn chăng? Có giác, tưởng, hành, thức nào thường trú, bất biến, chỉ còn có lạc, tồn tại vĩnh viễn chăng?”

Đức Phật bảo Tỳ-kheo:

- Không có một sắc nào thường trú, bất biến, hoàn toàn chỉ có lạc, tồn tại vĩnh viễn. Không có giác, tưởng, hành, thức nào thường trú, bất biến, hoàn toàn chỉ có lạc, tồn tại vĩnh viễn.

Bấy giờ, đức Thế Tôn dùng móng tay khơi ít phân bò, bảo Tỳ-kheo:

- Này Tỳ-kheo, nay ông có thấy Ta dùng móng tay khơi chút ít phân bò chăng?

Vị Tỳ-kheo đáp:

- Bạch đức Thế Tôn, có thấy!

Đức Phật bảo:

- Này Tỳ-kheo, cũng vậy, không có một tí sắc nào thường trú, bất biến, chỉ toàn có lạc, tồn tại vĩnh viễn. Cũng như vậy, không có một tí giác, tưởng, hành, thức nào thường trú, bất biến, chỉ toàn có lạc, tồn tại vĩnh viễn. Vì sao? Này Tỳ-kheo, nhớ lại xưa kia trong một thời gian dài, Ta thường làm phúc. Sau một thời gian dài làm phúc ấy, Ta thọ quả báo an lạc. Vào thuở xưa đó, Ta tu hành về từ tâm trong bảy năm; trải qua bảy kiếp thành hoại vẫn không trở lại thế gian này. Vào thời kiếp hoại, Ta sanh vào cõi trời Hoảng Dục. Vào thời kiếp thành, Ta sanh vào trong cung điện Không Phạm, ở trong cõi Phạm kia, làm Đại Phạm Thiên vương và qua một ngàn lần tái sanh vào những nơi khác, Ta làm Tự Tại Thiên vương; ba mươi sáu lần tái sanh làm Thiên Đế-thích, rồi lại vô lượng lần tái sanh làm Sát-lợi Đảnh Sanh vương. Này Tỳ-kheo, lúc làm Vua Sát-lợi Đảnh Sanh, Ta có tám vạn bốn ngàn thớt voi lớn được phủ những đồ cưỡi rất đẹp, dùng các báu bạch châu lạc trang sức, phủ lên voi chúa đầu đàn Vu-tra-hạ.

Này Tỳ-kheo, lúc Ta làm Vua Sát-lợi Đảnh Sanh có tám vạn bốn ngàn con ngựa được phủ lên thứ đồ cưỡi đẹp. Dùng các báu vàng, bạc, dao lạc để trang sức cho ngựa đầu đàn là ngựa Mao.

Này Tỳ-kheo, lúc Ta làm Vua Sát-lợi Đảnh Sanh có tám vạn bốn ngàn cỗ xe, trang sức bằng bốn cánh, dùng da vằn quý báu đủ màu của các thú như sư tử, cọp, beo, dệt thành đủ loại màu sắc xen lẫn trang sức cho cỗ xe dẫn đầu chạy rất nhanh chóng tên là xe Lạc Thanh.

Này Tỳ-kheo, lúc Ta làm Vua Sát-lợi Đảnh Sanh có tám vạn bốn ngàn thành lớn giàu có cùng cực, dân chúng đông đúc, lấy thành Câu-xá-hòa-đề vương làm đầu.

Này Tỳ-kheo, lúc làm Vua Sát-lợi Đảnh Sanh, Ta có tám vạn bốn ngàn ngôi lầu, có bốn loại lầu báu làm bằng vàng, bạc, lưu ly và thủy tinh, trải lên bằng các thứ nệm, chiếu dệt bằng lông năm sắc, phủ lên bằng những gấm, the, satrun, lụa là, có chăn nệm lót, hai đầu để gối, trải thảm quý bằng da sơn dương.

Này Tỳ-kheo, lúc Ta làm Vua Sát-lợi Đảnh Sanh, Ta có tám vạn bốn ngàn chiếc áo song y, áo sơ-ma, áo gấm, áo lụa, áo kiếp-bối, áo ca-lăng-già-bahòa-la.

Này Tỳ-kheo, lúc làm Vua Sát-lợi Đảnh Sanh, Ta có tám vạn bốn ngàn người nữ, thân thể nõn nà, sạch sẽ sáng sủa, sắc đẹp hơn người, đoan chính, ai nhìn cũng sanh ưa thích, trang điểm bằng các thứ vật báu, anh lạc, tất cả đều thuộc dòng Sát-lợi. Ngoài ra, những người thuộc dòng khác thì nhiều vô số.

Này Tỳ-kheo, lúc làm Vua Sát-lợi Đảnh Sanh, Ta có tám vạn bốn ngàn món ăn, mọi đêm thường dọn ra cho Ta ăn. Này Tỳ-kheo, trong tám vạn bốn ngàn món ăn kia, có một món hết sức ngon, sạch sẽ, có vô lượng mùi vị, là món Ta thường ăn.

Này Tỳ-kheo, trong tám vạn bốn ngàn người nữ kia có một người thuộc dòng Sát-lợi, đoan chánh đẹp đẽ khác thường, hầu hạ Ta.

Này Tỳ-kheo, trong tám vạn bốn ngàn song y kia có một chiếc áo song y, hoặc là áo sơ-ma, hoặc áo gấm, hoặc áo lụa, hoặc áo kiếp-bối, hoặc áo ca-lănggià-hòa-la là Ta thường mặc.

Này Tỳ-kheo, trong tám vạn bốn ngàn ngự tòa kia, có một ngự tòa làm bằng vàng hoặc bạc, hoặc lưu ly, hoặc thủy tinh; đồ trải lên thì dùng những tấm nệm, những chiếc chiếu dệt bằng lông năm sắc; đồ phủ lên thì dùng gấm, the, sa-trun, lụa là, có chăn nệm lót, hai đầu để gối, có trải thảm quý bằng da sơn dương, là Ta thường nằm.

Này Tỳ-kheo, trong tám vạn bốn ngàn lầu quán kia, có một lầu quán làm bằng vàng hoặc bạc, hoặc lưu ly, hoặc thủy tinh, tên là điện Chánh pháp, là nơi Ta thường ở.

Này Tỳ-kheo, trong tám vạn bốn ngàn thành lớn kia, có một thành giàu có cùng cực, dân chúng đông đúc, gọi là thành Câu-xá-hòa-đề, là chỗ Ta thường ở.

Này Tỳ-kheo, trong tám vạn bốn ngàn cỗ xe kia, có một cỗ được dùng da đủ màu của các thú như sư tử, cọp, beo dệt thành, màu sắc xen kẽ để trang hoàng, chạy rất nhanh chóng, tên là xe Lạc Sanh, Ta thường ngồi lên đi đến các lầu quán để ngắm nhìn các vườn tược.

Này Tỳ-kheo, trong tám vạn bốn ngàn con ngựa kia, có một con màu xanh mướt, đầu đen như quạ gọi là ngựa Mao, Ta thường cưỡi đi đến các lầu quán để ngắm các vườn tược.

Này Tỳ-kheo, trong tám vạn bốn ngàn thớt voi lớn kia, có một thớt toàn thân trắng toát, bảy chi thảy đều ngay thẳng, gọi là voi chúa Vu-tra-hạ, Ta thường cưỡi đi đến các lầu quán để ngắm các vườn tược.

Này Tỳ-kheo, bấy giờ Ta nghĩ rằng: “Đó là nghiệp quả gì mà nay Ta có đại như ý túc, đại oai đức, đại phước hựu, đại oai thần?”

Này Tỳ-kheo, Ta lại nghĩ: “Đó là ba nghiệp quả, là ba nghiệp báo khiến Ta ngày nay có đại như ý túc, có đại oai đức, có đại phước hựu, có đại oai thần: Một là bố thí, hai là điều phục, ba là thủ hộ.”

- Này Tỳ-kheo, ông hãy quán sát rằng, tất cả những gì hiện hữu đều phải tiêu diệt, cả đến như ý túc cũng phải mất. Này Tỳ-kheo, ông nghĩ thế nào? Sắc là thường hay vô thường?

- Bạch đức Thế Tôn, vô thường!

- Vô thường là khổ hay không khổ?

- Bạch đức Thế Tôn, là khổ và biến dịch!

- Nếu là pháp vô thường, khổ và biến dịch thì đa văn Thánh đệ tử có nên cho rằng: “Cái này là ta, cái này là tự ngã của ta, cái này là của ta” chăng?

- Bạch đức Thế Tôn, không!

- Này Tỳ-kheo, ông nghĩ thế nào, giác, tưởng, hành, thức là thường hay vô thường?

- Bạch đức Thế Tôn, là vô thường!

- Nếu vô thường thì khổ hay chẳng khổ?

- Bạch đức Thế Tôn, là khổ và biến dịch!

- Nếu là pháp vô thường, khổ và biến dịch thì đa văn Thánh đệ tử có nên cho rằng: “Cái này là ta, cái này là tự ngã của ta, cái này của ta” chăng?

- Bạch Thế Tôn, không!

- Vậy thì, này Tỳ-kheo, ông nên học như vầy: Bất cứ sắc nào, dù quá khứ, hoặc vị lai, hoặc hiện tại, hoặc trong hoặc ngoài, hoặc thô hoặc tế, hoặc đẹp hoặc xấu, hoặc gần hoặc xa; tất cả những cái ấy chẳng phải là ta, chẳng phải là tự ngã của ta, chẳng phải là của ta; hãy dùng trí tuệ quán sát, biết đúng như thật. Bất cứ giác, tưởng, hành, thức, hoặc quá khứ, hoặc vị lai, hoặc hiện tại, hoặc trong hoặc ngoài, hoặc thô hoặc tế, hoặc đẹp hoặc xấu, hoặc xa hoặc gần; tất cả những cái ấy chẳng phải là ta, chẳng phải là của ta; hãy dùng trí tuệ quán sát, biết đúng như thật.

Này Tỳ-kheo, nếu đa văn Thánh đệ tử quán như thế thì liền nhàm chán sắc, nhàm chán giác, tưởng, hành, thức; nhàm chán thì liền vô dục, vô dục thì giải thoát, giải thoát thì có giải thoát tri kiến, biết đúng như thật rằng: “Sự sanh đã dứt, Phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa.”

Bấy giờ, nghe đức Phật dạy như vậy xong, Tỳ-kheo ấy khéo ghi nhận, khéo ghi nhớ, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Ngài, đi quanh ba vòng rồi lui. Tỳ-kheo ấy sau khi thọ nhận lời giáo hóa của đức Phật, liền ở một mình thực hành hạnh viễn ly, tâm không buông lung, tu hành tinh tấn. Vị ấy đã sống một mình, thực hành hạnh viễn ly, tâm không buông lung, tu hành tinh tấn, đạt đến mục đích mà thiện nam tử đã cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà-sa, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất gia học đạo, đó là chỉ cầu vô thượng Phạm hạnh, ngay trong đời hiện tại, tự biết, tự ngộ, tự thân tác chứng, thành tựu an trú, biết đúng như thật rằng: “Sự sanh đã dứt, Phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa.” Như vậy, Tỳ-kheo ấy, sau khi đã biết pháp, chứng A-la-hán.

Đức Phật thuyết giảng như vậy, Tỳ-kheo ấy sau khi nghe Phật thuyết giảng, hoan hỷ phụng hành.

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.