Tam tạng Thánh điển PGVN 18 » Tam tạng Phật giáo Bộ phái 02 »
Dịch tiếng Việt: VIỆN CAO ĐẲNG PHẬT HỌC HẢI ĐỨC - NHA TRANG
Hiệu đính: Hòa Thượng THÍCH THIỆN SIÊU
Một thời, đức Phật du hóa tại nước Ma-kiệt-đà, trong hang rừng Mãng-nại, ở thôn Xà-đấu.
Bấy giờ, Tôn giả Di-hê làm thị giả cho Ngài.
Vào buổi sáng sớm, Tôn giả Di-hê mang y, cầm bát đi vào thôn Xà-đấu khất thực. Khất thực xong, Tôn giả đi đến bờ sông Kim-bệ, thấy một khu đất bằng phẳng, gọi là rừng Hảo-nại. Nước sông Kim-bệ rất tốt, thật là vừa ý, suối trong từ từ chảy, nóng lạnh ôn hòa, dễ chịu. Thấy thế, Tôn giả vui mừng thầm nghĩ: “Khu đất này bằng phẳng, gọi là rừng Hảo-nại. Nước sông Kim-bệ rất tốt, thật là vừa ý, suối trong từ từ chảy, nóng lạnh ôn hòa, dễ chịu. Nếu người quý tộc nào muốn tu pháp đoạn trừ thì nên ở chỗ này. Ta cũng có điều phải đoạn trừ, có nên ở chỗ yên tĩnh này để tu pháp đoạn trừ chăng?” Liền đó, sau khi ăn ngọ xong, Di-hê thu xếp y bát, rửa tay chân, vắt ni-sư-đàn lên vai, đi đến chỗ đức Phật, đảnh lễ dưới chân Ngài, rồi ngồi qua một bên mà bạch:
- Bạch đức Thế Tôn, sáng sớm hôm nay, con mang y, cầm bát đi vào thôn Xà-đấu khất thực. Khất thực xong, con đến bờ sông Kim-bệ, thấy một khu đất bằng phẳng, gọi là rừng Hảo-nại. Nước sông Kim-bệ rất tốt, thật là vừa ý, suối trong từ từ chảy, nóng lạnh ôn hòa, dễ chịu. Con vui mừng liền thầm nghĩ: “Khu đất này bằng phẳng, gọi là rừng Hảo-nại. Nước sông Kimbệ rất tốt, thật là vừa ý, suối trong từ từ chảy, nóng lạnh ôn hòa, dễ chịu. Nếu người quý tộc nào muốn tu pháp đoạn trừ thì nên ở chỗ này. Mình cũng có điều phải đoạn trừ, có thể ở chỗ yên tĩnh đó để tu pháp đoạn trừ chăng?” Bạch đức Thế Tôn, nay con muốn đến chỗ yên tĩnh ở rừng Hảo-nại kia để tu pháp đoạn trừ.
Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo:
- Này Di-hê, ông nay có biết không? Ta một mình, không có ai, không có thị giả. Ông có thể ở lại ít lâu, đợi có Tỳ-kheo khác đến làm thị giả cho Ta rồi ông có thể đến chỗ yên tĩnh ở rừng Hảo-nại kia mà tu pháp đoạn trừ.
Tôn giả Di-hê bạch đến ba lần rằng:
- Bạch đức Thế Tôn, nay con muốn đến chỗ yên tĩnh ở rừng Hảo-nại kia để tu pháp đoạn trừ.
Đức Thế Tôn cũng ba lần bảo rằng:
- Này Di-hê, ông nay có biết không? Ta một mình, không có ai, không có thị giả. Ông có thể ở lại ít lâu, đợi có Tỳ-kheo khác đến làm thị giả cho Ta rồi ông có thể đến chỗ yên tĩnh ở rừng Hảo-nại kia mà tu pháp đoạn trừ.
Di-hê lại bạch:
- Bạch Thế Tôn, Ngài là bậc không còn bổn phận, không còn điều phải làm, không còn điều phải quán. Con còn có những bổn phận, những điều phải làm, những điều phải quán. Bạch đức Thế Tôn, con xin đến chỗ yên tĩnh ở rừng Hảo-nại kia để tu pháp đoạn trừ.
Đức Thế Tôn dạy:
- Này Di-hê, ông mong cầu sự đoạn trừ, Ta không có nói gì thêm nữa. Dihê, ông cứ đi, tùy theo những gì mà ý ông muốn!
Bấy giờ, Tôn giả Di-hê nghe theo lời đức Phật dạy, như vậy khéo thọ nhận, khéo ghi nhớ và khéo tụng tập, Tôn giả liền đảnh lễ sát chân đức Phật, đi quanh ba vòng rồi đi. Sau khi đến rừng Hảo-nại kia, vào rừng, Tôn giả đi đến dưới một gốc cây, trải ni-sư-đàn mà ngồi kiết-già. Tôn giả Di-hê ở trong rừng Hảo-nại sanh khởi lên ba ý tưởng ác, bất thiện là dục, sân nhuế và hại. Do đó, Tôn giả liền nghĩ đến đức Thế Tôn. Bấy giờ vào lúc xế trưa, Tôn giả Di-hê từ chỗ ngồi nghỉ đứng dậy, đến trước đức Thế Tôn, đảnh lễ chân Ngài, ngồi qua một bên mà bạch rằng:
- Bạch đức Thế Tôn, con đến rừng Hảo-nại, ngồi ở chỗ yên tĩnh liền sanh khởi ba ý tưởng ác, bất thiện là dục, sân nhuế và hại. Do đó, con liền nghĩ đến Thế Tôn.
Đức Thế Tôn bảo:
- Này Di-hê, tâm giải thoát chưa thuần thục, muốn cho thuần thục, có năm pháp để tu tập. Những gì là năm? Di-hê, Tỳ-kheo phải tự mình là một thiện tri thức, phải gần thiện tri thức và cùng hòa hợp với thiện tri thức. Này Di-hê, với người tâm giải thoát chưa thuần thục, muốn cho thuần thục thì đó là pháp tu tập thứ nhất.
Lại nữa, Di-hê, là Tỳ-kheo phải tu tập cấm giới, thủ hộ giải thoát giới, lại phải khéo thâu nhiếp oai nghi, lễ tiết, thấy tội lỗi nhỏ nhặt cũng thường canh cánh lo sợ, thọ trì học giới. Này Di-hê, với người tâm giải thoát chưa thuần thục, muốn cho thuần thục thì đó là pháp tu tập thứ hai.
Lại nữa, Di-hê, là Tỳ-kheo nên nói điều đáng nói, phù hợp nghĩa của bậc Thánh, khiến tâm nhu nhuyến, làm cho tâm không bị che lấp, tức là nói về giới, nói về định, nói về huệ, nói về giải thoát, nói về giải thoát tri kiến, nói về sự tổn giảm dần dần, nói về việc không ưa tụ họp, nói về thiểu dục, nói về tri túc, nói về pháp đoạn trừ, nói về vô dục, nói về pháp diệt, nói về yến tọa, nói về duyên khởi đắc. Như vậy, những gì Sa-môn ấy nói đều được trọn đủ, dễ được chớ không khó. Này Di-hê, với người tâm giải thoát chưa thuần thục, muốn cho thuần thục thì đó là pháp tu tập thứ ba.
Lại nữa, này Di-hê, là Tỳ-kheo thì phải thực hành tinh tấn, đoạn trừ điều bất thiện, tu các pháp thiện, thường tự khởi ý chuyên nhất kiên cố, làm các điều thiện không xao lãng. Này Di-hê, với người tâm giải thoát chưa thuần thục, muốn cho thuần thục thì đó là pháp tu tập thứ tư.
Lại nữa, Di-hê, là Tỳ-kheo thì phải tu hành về trí tuệ, quán các pháp hưng suy, chứng trí như vậy, Thánh tuệ sáng suốt, phân biệt thấu hiểu để chính thức diệt tận khổ đau. Này Di-hê, với người tâm giải thoát chưa thuần thục, muốn cho thuần thục thì đó là pháp tu tập thứ năm.
Vị ấy khi đã có năm pháp tu tập này rồi, lại phải tu bốn pháp này nữa. Những gì là bốn? Tu ố lộ để đoạn trừ dục, tu từ để đoạn trừ sân nhuế, tu sổ tức để đoạn trừ tâm niệm tán loạn, tu vô thường tưởng để đoạn trừ ngã mạn.
Này Di-hê, nếu Tỳ-kheo nào tự mình là thiện tri thức, gần gũi thiện tri thức, cùng hòa hợp với thiện tri thức thì nên biết rằng vị ấy chắc chắn tu tập cấm giới, thủ hộ giải thoát giới, lại khéo thâu nhiếp các oai nghi, lễ tiết, thấy tội nhỏ nhặt cũng canh cánh lo sợ, thọ trì học giới. Này Di-hê, nếu Tỳ-kheo nào chính mình là thiện tri thức, gần gũi thiện tri thức và cùng hòa hợp với thiện tri thức thì nên biết rằng vị ấy chắc chắn nói điều đáng nói, đúng theo nghĩa của bậc Thánh, khiến tâm nhu nhuyến, làm cho tâm không bị ngăn che, tức là nói về giới, nói về định, nói về huệ, nói về giải thoát, nói về giải thoát tri kiến, nói về sự tổn giảm dần dần, nói về việc không ưa tụ họp, nói về thiểu dục, nói về tri túc, nói về pháp đoạn, nói về vô dục, nói về pháp diệt, nói về yến tọa, nói về duyên khởi đắc. Như vậy, những gì Sa-môn ấy nói đều được trọn đủ, dễ được chớ không khó.
Này Di-hê, nếu Tỳ-kheo tự mình là thiện tri thức, gần gũi thiện tri thức và cùng hòa hợp với thiện tri thức thì nên biết rằng vị ấy chắc chắc tu hành tinh tấn, đoạn các điều ác, bất thiện, tu tập các điều thiện, thường khởi tâm chuyên nhất kiên cố, làm các điều thiện không xao lãng. Này Di-hê, nếu Tỳ-kheo nào chính mình là thiện tri thức, gần gũi thiện tri thức và cùng hòa hợp với thiện tri thức thì nên biết rằng vị ấy chắc chắn tu về trí tuệ, quán các pháp hưng suy, chứng trí như vậy, Thánh tuệ sáng suốt, phân biệt thấu hiểu, để chính thức diệt tận khổ đau.
Này Di-hê, nếu Tỳ-kheo nào chính mình là thiện tri thức, gần gũi thiện tri thức, cùng hòa hợp với thiện tri thức thì nên biết rằng vị ấy chắc chắn tu ố lộ để đoạn dục, tu từ để đoạn sân nhuế, tu sổ tức để đoạn tâm niệm tán loạn, tu vô thường tưởng để đoạn ngã mạn.
Này Di-hê, nếu Tỳ-kheo nào đắc vô thường tưởng, chắc chắn vị ấy đắc vô ngã tưởng. Này Di-hê, nếu Tỳ-kheo nào đắc vô ngã tưởng thì ngay trong đời hiện tại, vị ấy đoạn hết thảy ngã mạn, chứng đắc tịch tĩnh, diệt tận, vô vi, Niết-bàn.
Đức Phật thuyết giảng như vậy, sau khi nghe những điều Phật thuyết giảng, Tôn giả Di-hê và các Tỳ-kheo đều hoan hỷ phụng hành.
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.