Tam tạng Thánh điển PGVN 18 » Tam tạng Phật giáo Bộ phái 02 »
Dịch tiếng Việt: VIỆN CAO ĐẲNG PHẬT HỌC HẢI ĐỨC - NHA TRANG
Hiệu đính: Hòa Thượng THÍCH THIỆN SIÊU
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật du hóa tại thành Vương Xá.
Bấy giờ, các đại đệ tử Tỳ-kheo Trưởng lão Thượng tôn danh đức được mọi người biết đến, đó là Tôn giả Câu-lân-nhã, Tôn giả A-nhiếp-bối, Tôn giả Bạt-đề Thích-ca Vương, Tôn giả Ma-ha-nam-câu-lệ, Tôn giả Hòa-phá, Tôn giả Da-xá, Tôn giả Bân-nậu, Tôn giả Duy-la-ma, Tôn giả Già-hòa-ba-đề, Tôn giả Nan-đề, Tôn giả Kim-tỳ-la, Tôn giả Lệ-bà-đa, Tôn giả Đại Mục-kiền-liên, Tôn giả Đại Ca-diếp, Tôn giả Đại Câu-hy-la, Tôn giả Đại Châu-na, Tôn giả Đại Ca-chiêndiên, Tôn giả Bân-nậu-gia-nậu Tả trưởng lão, Tôn giả Da-xá Hành Trù trưởng lão và rất nhiều các vị đại đệ tử Tỳ-kheo Trưởng lão Thượng tôn danh đức được mọi người biết đến, tương tự như vậy, cũng du hóa thành Vương Xá; tất cả đều ở gần ngôi nhà lá của Phật.
Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
Hiện nay Ta tuổi tác đã già, thân thể càng ngày càng suy yếu, tuổi thọ đã quá dài rồi nên Ta cần có thị giả. Các thầy hãy cử cho Ta một thầy thị giả, làm sao để chăm sóc Ta, xứng ý chớ không phải không xứng ý, ghi nhớ lời Ta nói mà không quên mất ý nghĩa.
Lúc ấy, Tôn giả Câu-lân-nhã liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch vai sửa y, chắp tay hướng về phía đức Phật thưa rằng:
Bạch Thế Tôn, con xin nguyện hầu hạ xứng ý chớ không phải không xứng ý, ghi nhớ những lời Ngài nói mà không quên mất ý nghĩa.
ĐứcThế Tôn dạy:
Này Câu-lân-nhã, chính thầy tuổi đã già, thân thể ngày càng suy yếu, tuổi thọ đã quá dài rồi. Chính thầy cũng cần có thị giả. Này Câu-lân-nhã, thầy nên về chỗ ngồi đi.
Bấy giờ, Tôn giả Câu-lân-nhã đảnh lễ chân Phật rồi lui về chỗ ngồi.
Cũng như vậy, lần lượt Tôn giả A-nhiếp-bối, Tôn giả Bạt-đề Thích-ca Vương, Tôn giả Ma-ha-nam-câu-lệ, Tôn giả Hòa-phá, Tôn giả Da-xá, Tôn giả Bân-nậu, Tôn giả Duy-la-ma, Tôn giả Hòa-ba-đề, Tôn giả Tu-đà-da, Tôn giả Xá-lợi-phất, Tôn giả A-na-luật-đà, Tôn giả Nan-đề, Tôn giả Kim-tỳ-la, Tôn giả Bệ-bà-đa, Tôn giả Đại Mục-kiền-liên, Tôn giả Đại Ca-diếp, Tôn giả Đại Câuhy-la, Tôn giả Đại Châu-na, Tôn giả Đại Ca-chiên-diên, Tôn giả Bân-nậu-gianậu Tả trưởng lão, Tôn giả Da-xá Hành Trù trưởng lão, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch vai sửa áo, chắp tay hướng về đức Phật, thưa rằng:
Bạch Thế Tôn, con xin nguyện hầu hạ xứng ý chớ không phải không xứng ý, ghi nhớ những lời Ngài nói mà không quên ý nghĩa.
Đức Thế Tôn bảo:
Này Da-xá, chính thầy tuổi đã già, thân thể ngày càng suy yếu, tuổi thọ đã quá dài rồi. Chính thầy cũng cần có thị giả. Này Da-xá, thầy nên về chỗ ngồi đi.
Bấy giờ, Tôn giả Da-xá liền đảnh lễ chân Phật trở về chỗ ngồi.
Bấy giờ, ở trong đại chúng ấy, Tôn giả Đại Mục-kiền-liên suy nghĩ như vầy: “Đức Thế Tôn muốn tìm vị nào làm thị giả, ý Ngài đặt vào cho vị Tỳ-kheo nào, muốn cho ai chăm sóc Ngài, xứng ý chớ không phải không xứng ý, và ghi nhớ những lời Ngài dạy mà không mất nghĩa, có lẽ ta nên nhập như kỳ tượng định, quán sát tâm niệm của đại chúng Tỳ-kheo.”
Thế rồi, Tôn giả Đại Mục-kiền-liên liền nhập như kỳ tượng định để quán sát tâm niệm của đại chúng Tỳ-kheo. Tôn giả Đại Mục-kiền-liên biết đức Thế Tôn muốn chọn Hiền giả A-nan làm thị giả, ý Ngài đặt vào A-nan, muốn A-nan chăm sóc, xứng ý chớ không phải không xứng ý, ghi nhớ lời dạy mà không quên ý nghĩa.
Bấy giờ, Tôn giả Đại Mục-kiền-liên xuất định, thưa với đại chúng Tỳ-kheo:
Chư Hiền biết không? Đức Thế Tôn muốn chọn Hiền giả A-nan làm thị giả, ý Ngài đặt vào A-nan, muốn A-nan chăm sóc, xứng ý chớ không phải không xứng ý, ghi nhớ lời dạy mà không quên ý nghĩa. Bấy giờ, chúng ta cùng nhau nên đến chỗ Hiền giả A-nan khuyến dụ để thầy ấy chịu làm thị giả.
Bấy giờ, Tôn giả Đại Mục-kiền-liên và các thầy Tỳ-kheo cùng nhau đến chỗ Tôn giả A-nan, chào hỏi nhau rồi ngồi sang một bên. Lúc ấy, Tôn giả Đại Mục-kiền-liên ngồi xong, bảo rằng:
Này Hiền giả A-nan, thầy biết không, đức Thế Tôn muốn chọn thầy làm thị giả, ý Ngài đặt vào A-nan, muốn A-nan chăm sóc Ngài, vì thầy xứng ý Ngài chớ không phải không xứng ý, ghi nhớ lời dạy của Ngài mà không quên mất ý nghĩa. Này A-nan, cũng như ngoài thôn xóm không bao xa, có một tòa lâu đài to lớn, cửa sổ ở phía Đông mở ra thì khi mặt trời mọc lên, ánh sáng sẽ rọi thẳng vào vách phía Tây. Này Hiền giả A-nan, đức Thế Tôn cũng vậy, muốn chọn Hiền giả A-nan làm thị giả, ý Ngài đặt vào A-nan, muốn A-nan chăm sóc Ngài, vì thầy xứng ý Ngài chớ không phải không xứng ý, ghi nhớ lời dạy của Ngài mà không quên mất ý nghĩa. Này Hiền giả A-nan, nay thầy nên làm thị giả đức Thế Tôn.
Tôn giả A-nan thưa:
Tôn giả Đại Mục-kiền-liên nói:
Tôn giả A-nan lại thưa:
Bấy giờ, sau khuyên Tôn giả A-nan làm thị giả rồi, Tôn giả Đại Mục-kiềnliên từ chỗ ngồi đứng dậy, đi quanh qua Tôn giả A-nan rồi trở về, đến chỗ đức Phật, cúi đầu đảnh lễ dưới chân Phật, rồi ngồi sang một bên và thưa:
Đức Thế Tôn dạy:
Này Đại Mục-kiền-liên, Tỳ-kheo A-nan thông minh, trí tuệ, dự đoán sẽ có những lời tỵ hiềm, hoặc các vị đồng Phạm hạnh sẽ nói như vầy: “Tỳ-kheo A-nan vì thực phẩm nên hầu hạ đức Thế Tôn.” Này Đại Mục-kiền-liên, nếu Tỳ-kheo A-nan thông minh, trí tuệ, dự đoán sẽ có những lời tỵ hiềm hoặc các vị đồng Phạm hạnh nói như vầy: “Tỳ-kheo A-nan vì thực phẩm nên hầu hạ đức Thế Tôn” thì đó là pháp vị tằng hữu của Tỳ-kheo A-nan.
Này Đại Mục-kiền-liên, Tỳ-kheo A-nan khéo biết thời, khéo phân biệt được thời. Biết lúc nào mình nên gặp Như Lai, biết lúc nào mình không nên gặp đức Như Lai. Biết lúc nào chúng Tỳ-kheo và chúng Tỳ-kheo-ni nên đến gặp Như Lai, biết lúc nào chúng Tỳ-kheo và chúng Tỳ-kheo-ni không nên đến gặp Như Lai. Biết lúc nào chúng ưu-bà-tắc và ưu-bà-di nên đến gặp Như Lai, biết lúc nào chúng ưu-bà-tắc và ưu-bà-di không nên đến gặp Như Lai. Biết lúc nào các hàng Sa-môn, Phạm chí dị học nên đến gặp đức Như Lai; biết lúc nào các hàng Sa-môn, Phạm chí dị học không nên đến gặp Như Lai. Biết các hàng Sa-môn, Phạm chí dị học nào có thể bàn luận với Như Lai; biết các hàng Sa-môn, Phạm chí dị học nào không thể bàn luận với Như Lai. Biết thức ăn loại cứng hay loại mềm nào đức Như Lai dùng rồi sẽ an ổn, lợi ích; biết thức ăn loại cứng hay loại mềm nào đức Như Lai dùng rồi sẽ không được an ổn, lợi ích. Biết thức ăn loại cứng hay loại mềm nào đức Như Lai dùng rồi sẽ được biện tài thuyết pháp, biết thức ăn loại cứng hay loại mềm nào đức Như Lai dùng rồi sẽ không được biện tài thuyết pháp. Đó là những pháp vị tằng hữu của Tỳ-kheo A-nan.
Này Đại Mục-kiền-liên, mặc dù Tỳ-kheo A-nan không có tha tâm trí, nhưng có thể khéo biết trước được là Như Lai sẽ thuyết pháp cho ai khi Như Lai từ chỗ ngồi tĩnh tọa đứng dậy vào buổi xế, hôm nay đức Như Lai sẽ làm như vậy, sẽ hiện pháp lạc trụ như vậy, nhận xét đúng như lời ngài nói, chắc thật, không thể sai khác. Đó là pháp vị tằng hữu của Tỳ-kheo A-nan.
Tôn giả A-nan nói như vầy: “Thưa chư Hiền, tôi đã hầu hạ đức Phật trong hai mươi lăm năm, nếu bảo do đó mà khởi tâm cống cao thì ý tưởng ấy không thể có.” Nếu Tôn giả A-nan nói như thế thì đó là pháp vị tằng hữu của Tỳ-kheo A-nan.
Tôn giả A-nan lại nói như vầy: “Thưa chư Hiền, tôi đã hầu hạ đức Phật trong hai mươi lăm năm, cho đến nay tôi chưa hề đến gặp đức Thế Tôn phi thời.” Nếu Tôn giả A-nan nói như thế thì đó là pháp vị tằng hữu của Tôn giả A-nan.
Tôn giả A-nan lại nói như vầy: “Thưa chư Hiền, tôi đã hầu hạ đức Phật trong hai mươi lăm năm, chưa từng một lần bị khiển trách, trừ có một lỗi, lỗi đó cũng vì người khác.” Nếu Tôn giả A-nan nói như vậy thì đó là pháp vị tằng hữu của Tôn giả A-nan.
Tôn giả A-nan lại nói như vầy: “Thưa chư Hiền, tôi theo đức Như Lai thọ nhận tám vạn pháp tụ, thọ trì không quên, nếu nhân điều đó mà khởi cống cao, sự kiện như vậy không thể có.” Nếu Tôn giả A-nan nói như thế thì đó là pháp vị tằng hữu của Tôn giả A-nan.
Tôn giả A-nan lại nói như vầy: “Thưa chư Hiền, tôi theo đức Như Lai thọ trì tám vạn pháp tụ, chưa hề hỏi lại lần thứ hai, trừ có một câu, câu ấy như vậy cũng không dễ.” Nếu Tôn giả A-nan nói như thế thì đó là pháp vị tằng hữu của Tôn giả A-nan.
Tôn giả A-nan lại nói như vầy: “Thưa chư Hiền, tôi theo đức Như Lai thọ trì tám vạn pháp tụ, chưa hề theo người khác thọ pháp.” Nếu Tôn giả A-nan nói như vậy thì đó là pháp vị tằng hữu của Tôn giả A-nan.
Tôn giả A-nan lại nói như vầy: “Thưa chư Hiền, tôi theo đức Như Lai thọ trì tám vạn pháp tụ, trước hết không có tâm này: ‘Tôi thọ trì pháp ấy là để giáo hóa cho người khác.’ Này chư Hiền, tôi chỉ muốn tự điều ngự, tự tịch tịnh, tự Bát-niết-bàn thôi.” Nếu Tôn giả A-nan nói như thế thì đó là pháp vị tằng hữu của Tôn giả A-nan.
Tôn giả A-nan lại nói như vầy: “Thưa chư Hiền, có điều rất kỳ lạ này! Đó là bốn bộ chúng đi đến chỗ tôi để nghe pháp. Nếu tôi vì thế mà khởi cống cao, điều ấy không thể có được. Tôi cũng không hề tác ý trước, để khi có người đến hỏi thì tôi sẽ trả lời như vầy, như vầy. Này chư Hiền, bấy giờ tôi chỉ ngồi đấy rồi tùy theo nghĩa mà người kia hỏi để ứng đối.” Nếu Tôn giả A-nan nói như vậy thì đó là pháp vị tằng hữu của Tôn giả A-nan.
Tôn giả A-nan lại nói như vầy: “Thưa chư Hiền, có điều rất kỳ lạ này! Đó là có số đông Sa-môn, Phạm chí dị học đến hỏi việc nơi tôi; nếu vì thế mà tôi sợ sệt, hãi hùng, lông tóc dựng đứng thì không thể có sự kiện ấy. Tôi cũng không hề tác ý trước, để khi có người đến hỏi thì tôi sẽ trả lời như vầy, như vầy. Thưa chư Hiền, bấy giờ tôi chỉ ngồi đấy, rồi tùy theo nghĩa ấy mà ứng đối.” Nếu Tôn giả A-nan nói như thế thì đó là pháp vị tằng hữu của Tôn giả A-nan.
Lại nữa, có một thời, Tôn giả Xá-lợi-phất, Tôn giả Đại Mục-kiền-liên và Tôn giả A-nan trú tại nước Xá-vệ, trong núi Ba-la-la. Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợiphất hỏi rằng:
Tôn giả A-nan thưa:
Tôn giả Xá-lợi-phất lại bảo:
Tôn giả Xá-lợi-phất lại hỏi lần thứ hai rồi lần thứ ba rằng:
Tôn giả A-nan cũng đáp đến lần thứ hai, rồi lần thứ ba rằng:
Tôn giả Xá-lợi-phất lại bảo:
Bấy giờ, Tôn giả Đại Mục-kiền-liên nói:
Lúc đó, Tôn giả A-nan đáp lời:
Nếu Tôn giả A-nan nói như thế thì đó là pháp vị tằng hữu của Tôn giả A-nan.
Lại nữa, có một thời, đức Thế Tôn du hóa ở thành Vương Xá, trụ trong Nham Sơn. Bấy giờ, Thế Tôn bảo rằng:
Tôn giả A-nan thưa:
Đức Thế Tôn đáp:
Tôn giả A-nan thưa:
Đức Thế Tôn đáp:
Tôn giả A-nan thưa:
Tôn giả A-nan lại thưa như vầy:
Nếu Tôn giả A-nan nói như thế thì đó là pháp vị tằng hữu của Tôn giả A-nan.
Lại nữa, có thời, đức Thế Tôn du hóa ở Câu-thi-na-kiệt, trụ trong rừng Sa-la của Hòa-bạt-đan lực sĩ. Bấy giờ là lúc tối hậu, đức Thế Tôn muốn thủ Bát-niếtbàn. Ngài bảo rằng:
Tôn giả A-nan vâng lời dạy của đức Như Lai liền đến giữa hai cây Sa-la, trải giường nằm, đầu xoay về hướng Bắc cho đức Như Lai, trải giường rồi trở về nơi đức Phật, cúi đầu lễ chân Phật, đứng sang một bên, thưa rằng:
Bấy giờ, đức Thế Tôn cùng với Tôn giả A-nan đến giữa hai cây Sa-la, xếp làm tư Ưu-đa-la-tăng trải lên giường, gấp y Tăng-già-lê để làm gối, nằm về phía hông bên phải, hai chân chồng lên nhau. Lúc cuối cùng sắp Bát-niết-bàn, Tôn giả A-nan quạt hầu Phật, giơ tay gạt nước mắt, rồi nghĩ như vầy: “Trước kia có đại chúng Tỳ-kheo ở các nơi muốn đến thăm đức Thế Tôn để cúng dường, lễ bái thì đều có thể tùy lúc mà thăm viếng đức Thế Tôn để cúng dường, lễ bái. Nếu họ nghe được đức Thế Tôn đã Bát-niết-bàn thì sẽ không còn đến để được thăm viếng đức Thế Tôn mà cúng dường, lễ bái. Ta cũng không còn tùy lúc thăm viếng đức Thế Tôn để cúng dường, lễ bái.” Bấy giờ, đức Thế Tôn hỏi các Tỳ-kheo:
Lúc ấy, các vị Tỳ-kheo thưa:
Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo rằng:
Này Đại Mục-kiền-liên, Tỳ-kheo A-nan khéo biết thời, khéo phân biệt được thời. Biết lúc nào mình nên đến gặp đức Như Lai, biết lúc nào mình không nên đến gặp đức Như Lai. Biết lúc nào chúng Tỳ-kheo và chúng Tỳ-kheo-ni nên đến gặp đức Như Lai, biết lúc nào chúng Tỳ-kheo và chúng Tỳ-kheo-ni không nên đến gặp đức Như Lai. Biết lúc nào chúng ưu-bà-tắc và ưu-bà-di nên đến gặp đức Như Lai, biết lúc nào chúng ưu-bà-tắc và chúng ưu-bà-di không nên đến gặp đức Như Lai. Biết lúc nào hàng Sa-môn, Phạm chí dị học nên đến gặp đức Như Lai; biết lúc nào các hàng Sa-môn, Phạm chí dị học không nên đến gặp đức Như Lai. Biết các hàng Sa-môn, Phạm chí dị học nào có thể bàn luận với đức Như Lai; biết các hàng Sa-môn, Phạm chí dị học nào không thể bàn luận với đức Như Lai. Biết thức ăn loại cứng hay loại mềm nào đức Như Lai dùng rồi sẽ an ổn, lợi ích; biết thức ăn loại cứng hay loại mềm nào đức Như Lai dùng rồi sẽ không được an ổn, lợi ích. Biết thức ăn loại cứng hay loại mềm nào đức Như Lai dùng rồi sẽ được biện tài thuyết pháp; biết thức ăn loại cứng hay loại mềm nào đức Như Lai dùng rồi sẽ không được biện tài thuyết pháp.
Lại nữa A-nan, mặc dù thầy không có tha tâm trí, nhưng biết trước được đức Như Lai vào buổi xế, từ chỗ ngồi tĩnh tọa đứng dậy, sẽ chuẩn bị thuyết pháp cho ai, hôm nay đức Như Lai sẽ làm như vậy, sẽ hiện pháp lạc trú như vậy, xét đúng như lời đức Phật dạy, chắc thật, không có sự sai khác.
Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn làm cho Tôn giả A-nan vui mừng nên bảo với các thầy Tỳ-kheo rằng:
Tỳ-kheo A-nan cũng giống như vậy, được bốn pháp vị tằng hữu. Những gì là bốn? Đó là chúng Tỳ-kheo khi đến gặp A-nan, nếu lúc ấy A-nan im lặng, họ thấy mặt liền hoan hỷ; nếu lúc ấy A-nan có nói gì, họ nghe rồi liền hoan hỷ. Chúng Tỳ-kheo-ni, chúng ưu-bà-tắc, chúng ưu-bà-di đến gặp A-nan, nếu lúc ấy A-nan im lặng, họ thấy mặt liền hoan hỷ; nếu lúc ấy A-nan có nói gì, họ nghe rồi liền hoan hỷ.
Lại nữa, A-nan thuyết pháp cho đại chúng có bốn điều vị tằng hữu. Những gì là bốn? Tỳ-kheo A-nan thuyết pháp cho chúng Tỳ-kheo với chí tâm, không phải không có chí tâm; chúng Tỳ-kheo kia cũng nghĩ như vậy: “Mong Tôn giả A-nan thuyết pháp không dừng lại nửa chừng!” Chúng Tỳ-kheo kia nghe Tôn giả A-nan thuyết pháp hoàn toàn không chán nản, nhưng Tỳ-kheo A-nan vẫn ngồi im lặng. Tỳ-kheo A-nan thuyết pháp cho chúng Tỳ-kheo-ni, chúng ưu-bàtắc, chúng ưu-bà-di với chí tâm, chẳng phải không có chí tâm; chúng ưu-bà-di cũng nghĩ như vầy: “Mong Tôn giả A-nan thuyết pháp không dừng lại nửa chừng!” Chúng ưu-bà-di ấy nghe Tôn giả A-nan thuyết pháp, hoàn toàn không nhàm chán, nhưng Tỳ-kheo A-nan vẫn ngồi im lặng.
Lại nữa, có một thời, sau khi Thế Tôn Bát-niết-bàn không bao lâu; Tôn giả A-nan du hóa tại Kim Cang, trụ thôn Kim Cang. Bấy giờ, Tôn giả A-nan thuyết pháp cho vô lượng trăm ngàn đại chúng vây quanh trước sau. Bấy giờ, Tôn giả Kim Cang Tử cũng đang ở trong đại chúng ấy. Tôn giả Kim Cang Tử trong tâm suy nghĩ như vầy: “Tôn giả A-nan vẫn còn là bậc Hữu học, chưa ly dục sao? Ta nên nhập như kỳ tượng định, bằng như kỳ tượng định mà quán sát tâm của Tôn giả A-nan.” Thế rồi, Tôn giả Kim Cang Tử liền vào như kỳ tượng định, bằng như kỳ tượng định mà quán sát tâm Tôn giả A-nan. Tôn giả Kim Cang Tử biết Tôn giả A-nan vẫn còn là bậc Hữu học nên chưa ly dục. Bấy giờ, Tôn giả Kim Cang Tử ra khỏi tam-muội, hướng về Tôn giả A-nan mà nói bài tụng rằng:
Núi rừng vắng, tư duy, Niết-bàn khiến vào tâm, Thiền Cù-đàm không loạn, Sẽ sớm chứng tịch tĩnh.
Bấy giờ, Tôn giả A-nan vâng lời dạy của Tôn giả Kim Cang Tử, rời bỏ chỗ đông, sống một mình, tinh tấn, không tán loạn. Vị ấy rời bỏ chỗ đông người, sống một mình, tinh tấn không tán loạn để đạt mục đích mà thiện nam tử đã cạo bỏ râu tóc, khoác áo cà-sa, chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất gia học đạo, là duy chỉ thành tựu Phạm hạnh vô thượng, ngay trong đời hiện tại, tự tri, tự giác, tự chứng, thành tựu và an trú, biết như thật rằng: “Sự sanh đã dứt, Phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa.” Tôn giả A-nan biết pháp rồi, cho đến chứng đắc A-la-hán. Tôi giả A-nan nói như vầy:
Nếu Tôn giả A-nan nói như thế thì đó là pháp vị tằng hữu của Tỳ-kheo A-nan.
Tôn giả A-nan lại nói như vầy:
Tôn giả A-nan liền ngồi kiết-già để Bát-niết-bàn.
Nếu Tôn giả A-nan ngồi kiết-già để Bát-niết-bàn thì đó là pháp vị tằng hữu của Tỳ-kheo A-nan.
Đức Phật thuyết như vậy, các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật dạy xong, hoan hỷ phụng hành.
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.