Viện Nghiên Cứu Phật Học

Tam tạng Thánh điển PGVN 18 » Tam tạng Phật giáo Bộ phái 02 » 

Kinh Trung A-Hàm
(中阿含經)

Dịch tiếng Việt: VIỆN CAO ĐẲNG PHẬT HỌC HẢI ĐỨC - NHA TRANG
Hiệu đính: Hòa Thượng THÍCH THIỆN SIÊU

Mục Lục

31. KINH PHÂN BIỆT THÁNH ĐẾ

Tôi nghe như vầy:

Một thời, đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng Lâm, vườn Cấp Cô Độc.

Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo các thầy Tỳ-kheo rằng:

– Đây là sự công bố Chánh pháp tối thượng, tức là công bố bốn Thánh đế; đó là sự thâu nhiếp toàn diện, là sự quán chiếu toàn diện, là sự phân biệt, là sự phát lồ, là sự khát ngưỡng, là sự thi thiết, là sự hiển thị, là sự thú hướng.

Trong quá khứ, các đức Như Lai, bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác cũng đã có sự công bố Chánh pháp tối thượng này, tức công bố bốn Thánh đế; đó là sự thâu nhiếp toàn diện, là sự quán chiếu toàn diện, là sự phân biệt, là sự phát lồ, là sự khát ngưỡng, là sự thi thiết, là sự hiển thị, là sự thú hướng.

Trong đời vị lai, các đức Như Lai, bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác cũng sẽ có sự công bố Chánh pháp tối thượng này, tức công bố bốn Thánh đế; đó là sự thâu nhiếp toàn diện, là sự quán chiếu toàn diện, là sự phân biệt, là sự phát lồ, là sự khát ngưỡng, là sự thi thiết, là sự hiển thị, là sự thú hướng.

Trong đời hiện tại, Ta là đức Như Lai, bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác cũng công bố Chánh pháp tối thượng này, tức công bố bốn Thánh đế; đó là sự thâu nhiếp toàn diện, là sự quán chiếu toàn diện, là sự phân biệt, là sự phát lồ, là sự khát ngưỡng, là sự thi thiết, là sự hiển thị, là sự thú hướng.

Tỳ-kheo Xá-lợi-phất là bậc thông huệ, là bậc tối huệ, là bậc tiệp huệ, là bậc lợi huệ, quảng huệ, thâm huệ, xuất yếu huệ, minh đạt huệ, biện tài huệ. Tỳ-kheo Xá-lợi-phất thành tựu thật huệ. Vì sao vậy? Vì Ta nói sơ lược về bốn Thánh đế này thì Tỳ-kheo Xá-lợi-phất có thể vì người khác mà giáo hóa toàn diện, quán sát toàn diện, phân biệt, phát lồ, khát ngưỡng, thi thiết, hiển thị, thú hướng.

Khi Tỳ-kheo Xá-lợi-phất giáo hóa toàn diện, khai thị toàn diện về bốn Thánh đế này, phân biệt, phát lồ, khát ngưỡng, thi thiết, hiển thị, thú hướng thì có thể làm cho vô lượng người đạt đến chánh quán. Tỳ-kheo Xá-lợi-phất có khả năng hướng dẫn bằng chánh kiến; Tỳ-kheo Mục-kiền-liên có khả năng làm cho đứng vững nơi chân tế tối thượng, nghĩa là cứu cánh lậu tận. Tỳ-kheo Xá-lợiphất sanh ra các bậc Phạm hạnh, cũng như sanh mẫu; Tỳ-kheo Mục-kiền-liên trưởng dưỡng các bậc Phạm hạnh, cũng như dưỡng mẫu. Do đó, các vị Phạm hạnh nên phụng sự, cúng dường, cung kính, lễ bái Tỳ-kheo Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên. Vì sao thế? Vì Tỳ-kheo Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên mong cầu phước lợi, thiện ích, và cầu sự an ổn, an lạc cho các vị Phạm hạnh.

Bấy giờ, sau khi nói như vậy rồi đức Thế Tôn liền từ chỗ ngồi đứng dậy đi vào tịnh thất tĩnh tọa. Lúc đó, Tôn giả Xá-lợi-phất bảo các thầy Tỳ-kheo rằng:

– Này chư Hiền, đức Thế Tôn vì chúng ta mà xuất hiện trên thế gian, vì mọi người mà giáo hóa và khai thị toàn diện bốn Thánh đế này, phân biệt, phát lồ, khát ngưỡng, thi thiết, hiển thị, thú hướng.

Những gì là bốn? Đó là khổ Thánh đế, khổ tập, khổ diệt và khổ diệt đạo Thánh đế. Này chư Hiền, thế nào là khổ Thánh đế? Sanh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, oán thù mà gặp nhau là khổ, yêu thương mà xa lìa là khổ, mong cầu mà không được là khổ; tóm lại, năm ấm là khổ.

Này chư Hiền, nói sanh là khổ, vì lẽ gì mà nói như vậy? Này chư Hiền, sanh là chúng sanh kia và tất cả chủng loại chúng sanh khác sanh thì sanh, xuất thì xuất, thành thì thành, phát khởi năm ấm rồi, liền có mạng căn, như vậy gọi là sanh.

Này chư Hiền, sanh là khổ, đó là chúng sanh khi sanh, thân chịu sự khổ, lãnh nạp tất cả lãnh nạp, cảm thọ tất cả cảm thọ; lãnh nạp khổ, lãnh nạp tất cả lãnh nạp, cảm thọ tất cả cảm thọ; thân tâm lãnh nạp khổ, lãnh nạp tất cả lãnh nạp, cảm thọ tất cả cảm thọ; thân lãnh nạp sự phiền não, lãnh nạp tất cả lãnh nạp, cảm thọ tất cả cảm thọ; tâm lãnh nạp nhiệt não, lãnh nạp tất cả lãnh nạp, cảm thọ tất cả cảm thọ; thân tâm lãnh nạp sự nhiệt não, lãnh nạp tất cả lãnh nạp, cảm thọ tất cả cảm thọ; thân lãnh nạp sự tráng nhiệt, sự phiền não, sự ưu sầu, lãnh nạp tất cả lãnh nạp, cảm thọ tất cả cảm thọ; tâm lãnh nạp sự tráng nhiệt, sự phiền não, sự ưu sầu, lãnh nạp tất cả lãnh nạp, cảm thọ tất cả cảm thọ; thân tâm lãnh nạp sự tráng nhiệt, sự phiền não, sự ưu sầu, lãnh nạp tất cả lãnh nạp, cảm thọ tất cả cảm thọ. Này chư Hiền, nói sanh là khổ, là do đó mà nói vậy.

Này chư Hiền, nói già là khổ, vì lẽ gì nói như vậy? Này chư Hiền, già nghĩa là chúng sanh kia và tất cả chúng sanh khác trở nên già yếu, đầu bạc, răng rụng, sự cường tráng ngày càng suy giảm, thân còng, chân vẹo, cơ thể nặng nề, hơi thở đưa lên, phải chống gậy mà đi, thịt rút, da nhăn xù xì như cây gai, các căn hư hoại, nhan sắc xấu xí, như vậy gọi là lão. Này chư Hiền, già là khổ, nghĩa là khi chúng sanh già, thân chịu khổ, lãnh nạp tất cả lãnh nạp, cảm thọ tất cả cảm thọ; tâm lãnh nạp khổ, lãnh nạp tất cả lãnh nạp, cảm thọ tất cả cảm thọ; thân tâm lãnh nạp khổ, lãnh nạp tất cả lãnh nạp, cảm thọ tất cả cảm thọ; thân lãnh nạp sự nhiệt não, lãnh nạp tất cả lãnh nạp, cảm thọ tất cả cảm thọ; tâm lãnh nạp sự nhiệt não, lãnh nạp tất cả lãnh nạp, cảm thọ tất cả cảm thọ; thân tâm lãnh nạp sự nhiệt não, lãnh nạp tất cả lãnh nạp, cảm thọ tất cả cảm thọ; thân lãnh nạp sự tráng nhiệt, sự phiền não, sự ưu sầu, lãnh nạp tất cả lãnh nạp, cảm thọ tất cả cảm thọ; tâm lãnh nạp sự tráng nhiệt, sự phiền não, sự ưu sầu, lãnh nạp tất cả lãnh nạp, cảm thọ tất cả cảm thọ; thân tâm lãnh nạp sự tráng nhiệt, sự phiền não, sự ưu sầu, lãnh nạp tất cả lãnh nạp, cảm thọ tất cả cảm thọ. Này chư Hiền, nói già là khổ, là do đó mà nói vậy.

Này chư Hiền, nói bệnh là khổ, vì lẽ gì nói như vậy? Này chư Hiền, bệnh là đầu đau, mắt đau, mũi đau, mặt đau, môi đau, răng đau, lưỡi đau, nướu đau, cổ đau, phong suyễn, ho hen, ói mửa, cứng họng, bệnh điên, bệnh động kinh, ung thư, mọc bướu, kinh tràn, đờm đỏ, nóng bức, khô héo, bệnh trĩ, mụt nhọt, kiết lỵ và tất cả những bệnh khác tương tự như vậy, từ xúc mà sanh ra không rời khỏi tâm, ở ngay trong thân, như vậy gọi là bệnh. Này chư Hiền, bệnh là khổ, nghĩa là khi chúng sanh bị bệnh, thân chịu khổ, lãnh nạp tất cả lãnh nạp, cảm thọ tất cả cảm thọ; tâm lãnh nạp khổ, lãnh nạp tất cả lãnh nạp, cảm thọ tất cả cảm thọ; thân tâm lãnh nạp khổ, lãnh nạp tất cả lãnh nạp, cảm thọ tất cả cảm thọ; thân lãnh nạp sự nhiệt não, lãnh nạp tất cả lãnh nạp, cảm thọ tất cả cảm thọ; tâm lãnh nạp sự nhiệt não, lãnh nạp tất cả lãnh nạp, cảm thọ tất cả cảm thọ; thân tâm lãnh nạp sự nhiệt não, lãnh nạp tất cả lãnh nạp, cảm thọ tất cả cảm thọ; thân lãnh nạp sự tráng nhiệt, sự phiền não, sự ưu sầu, lãnh nạp tất cả lãnh nạp, cảm thọ tất cả cảm thọ; tâm lãnh nạp sự tráng nhiệt, sự phiền não, sự ưu sầu, lãnh nạp tất cả lãnh nạp, cảm thọ tất cả cảm thọ; thân tâm lãnh nạp sự tráng nhiệt, sự phiền não, sự ưu sầu, lãnh nạp tất cả lãnh nạp, cảm thọ tất cả cảm thọ. Này chư Hiền, nói bệnh là khổ, là do đó mà nói vậy.

Này chư Hiền, nói chết là khổ, vì lẽ gì mà nói như vậy? Này chư Hiền, chết là chúng sanh kia và tất cả chủng loại chúng sanh khác mạng chung, vô thường, chết chóc, tan rã, tuổi thọ chấm dứt, hủy hoại, mạng căn bế tắc, như vậy gọi là chết. Này chư Hiền, chết là khổ, nghĩa là khi chúng sanh chết, thân lãnh nạp khổ, lãnh nạp tất cả lãnh nạp, cảm thọ tất cả cảm thọ; tâm lãnh nạp khổ, lãnh nạp tất cả lãnh nạp, cảm thọ tất cả cảm thọ; thân tâm lãnh nạp khổ, lãnh nạp tất cả lãnh nạp, cảm thọ tất cả cảm thọ; thân lãnh nạp sự nhiệt não, lãnh nạp tất cả lãnh nạp, cảm thọ tất cả cảm thọ; tâm lãnh nạp sự nhiệt não, lãnh nạp tất cả lãnh nạp, cảm thọ tất cả cảm thọ; thân tâm lãnh nạp sự nhiệt não, lãnh nạp tất cả lãnh nạp, cảm thọ tất cả cảm thọ; thân lãnh nạp sự tráng nhiệt, sự phiền não, sự ưu sầu, lãnh nạp tất cả lãnh nạp, cảm thọ tất cả cảm thọ; tâm lãnh nạp sự tráng nhiệt, sự phiền não, sự ưu sầu, lãnh nạp tất cả lãnh nạp, cảm thọ tất cả cảm thọ; thân tâm lãnh nạp sự tráng nhiệt, sự phiền não, sự ưu sầu, lãnh nạp tất cả lãnh nạp, cảm thọ tất cả cảm thọ. Này chư Hiền, nói chết là khổ, là do đó mà nói vậy.

Này chư Hiền, nói oán ghét mà gặp nhau là khổ, vì lẽ gì mà nói như vậy? Này chư Hiền, oán ghét mà gặp gỡ nhau nghĩa là chúng sanh thật sự có sáu xứ bên trong, nhãn xứ, nhĩ, tỷ, thiệt, thân và ý xứ không khả ái; nhưng chúng cùng tụ hội ở một chỗ, có sự gắn bó, hòa hợp, tập hợp; sự hòa hợp ấy là khổ. Cũng vậy, các ngoại xứ, xúc, thọ, tưởng, hành, ái cũng lại như vậy. Này chư Hiền, chúng sanh quả thật có sáu giới, địa giới, thủy, hỏa, phong, không và thức giới không khả ái; nhưng chúng cùng tụ hội lại một chỗ, có sự gắn bó, hòa hợp, tụ họp; sự hòa hợp ấy là khổ. Như vậy gọi là oán ghét mà gặp nhau. Này chư Hiền, oán ghét mà gặp nhau là khổ, nghĩa là khi chúng sanh oán ghét nhau mà gặp nhau, thân lãnh nạp khổ, lãnh nạp tất cả lãnh nạp, cảm thọ tất cả cảm thọ; tâm lãnh nạp khổ, lãnh nạp tất cả lãnh nạp, cảm thọ tất cả cảm thọ; thân tâm lãnh nạp khổ, lãnh nạp tất cả lãnh nạp, cảm thọ tất cả cảm thọ; thân lãnh nạp sự nhiệt não, lãnh nạp tất cả lãnh nạp, cảm thọ tất cả cảm thọ; tâm lãnh nạp sự nhiệt não, lãnh nạp tất cả lãnh nạp, cảm thọ tất cả cảm thọ; thân tâm lãnh nạp sự nhiệt não, lãnh nạp tất cả lãnh nạp, cảm thọ tất cả cảm thọ; thân lãnh nạp sự tráng nhiệt, sự phiền não, sự ưu sầu, lãnh nạp tất cả lãnh nạp, cảm thọ tất cả cảm thọ; tâm lãnh nạp sự tráng nhiệt, sự phiền não, sự ưu sầu, lãnh nạp tất cả lãnh nạp, cảm thọ tất cả cảm thọ; thân tâm lãnh nạp sự tráng nhiệt, sự phiền não, sự ưu sầu, lãnh nạp tất cả lãnh nạp, cảm thọ tất cả cảm thọ. Này chư Hiền, nói oán ghét mà gặp nhau là khổ, là do đó mà nói vậy.

Này chư Hiền, nói yêu thương mà xa lìa là khổ, vì lẽ gì mà nói như vậy? Này chư Hiền, yêu thương mà xa lìa là khổ, đó là chúng sanh quả thật có sáu xứ bên trong, nhãn xứ, nhĩ, tỷ, thiệt, thân và ý xứ khả ái; nhưng chúng phân tán thành khác biệt, không tương ưng nhau, cách xa, không tụ hội, không gắn bó, không tập hợp, không hòa hợp, đó là khổ. Cũng vậy, ngoài các ngoại xứ, xúc, thọ, tưởng, hành, ái, cũng lại như vậy. Này chư Hiền, chúng sanh quả thật có sáu giới, địa giới, thủy, hỏa, phong, không và thức giới khả ái; nhưng chúng phân tán thành khác biệt, không tương ưng nhau, cách xa, không tụ hội, không gắn bó, không tập hợp, không hòa hợp, đó là khổ. Như vậy gọi là yêu thương mà xa lìa là khổ. Này chư Hiền, yêu thương mà xa lìa là khổ nghĩa là chúng sanh khi xa cách nhau, thân lãnh nạp khổ, lãnh nạp tất cả lãnh nạp, cảm thọ tất cả cảm thọ; tâm lãnh nạp khổ, lãnh nạp tất cả lãnh nạp, cảm thọ tất cả cảm thọ; thân tâm lãnh nạp khổ, lãnh nạp tất cả lãnh nạp, cảm thọ tất cả cảm thọ; thân lãnh nạp nhiệt não, lãnh nạp tất cả lãnh nạp, cảm thọ tất cả cảm thọ; tâm lãnh nạp nhiệt não, lãnh nạp tất cả lãnh nạp, cảm thọ tất cả cảm thọ; thân tâm lãnh nạp nhiệt não, lãnh nạp tất cả lãnh nạp, cảm thọ tất cả cảm thọ; thân lãnh nạp tráng nhiệt, sự phiền não, sự ưu sầu, lãnh nạp tất cả lãnh nạp, cảm thọ tất cả cảm thọ; tâm lãnh nạp tráng nhiệt, sự phiền não, sự ưu sầu, lãnh nạp tất cả lãnh nạp, cảm thọ tất cả cảm thọ; thân tâm lãnh nạp tráng nhiệt, sự phiền não, sự ưu sầu, lãnh nạp tất cả lãnh nạp, cảm thọ tất cả cảm thọ. Này chư Hiền, yêu thương mà xa lìa là khổ, là do đó mà nói.

Này chư Hiền, nói mong cầu mà không được là khổ, vì lẽ gì mà nói như vậy? Này chư Hiền, nghĩa là chúng sanh trong sự sanh không thể xa lìa sự sanh, ước muốn rằng: “Mong tôi không sanh ra!” Điều ấy quả thật không thể muốn mà được; với sự già, sự chết, sự buồn rầu, lo lắng bi ai mà ước muốn rằng: “Mong tôi không có bi ai!” Điều ấy không thể muốn mà được. Này chư Hiền, chúng sanh quả thật sanh là khổ, không khả lạc, không khả ái, không khả niệm; người ấy nghĩ thế này: “Nếu sanh ra khổ nên không khả lạc, không khả ái, không khả niệm, mong sao được đổi thành khả ái, khả niệm!” Điều ấy không thể muốn mà được. Này chư Hiền, chúng sanh nào quả thật sanh ra lạc, khả ái, khả niệm; người ấy nghĩ như vầy: “Nếu ta sanh ra lạc, khả ái, khả niệm, mong sao nó là pháp thường hằng, vĩnh cửu, không biến dịch!” Điều ấy không thể muốn mà được.

Này chư Hiền, chúng sanh nào quả thật sanh ra tư tưởng không khả lạc, không khả ái, không khả niệm; người ấy nghĩ như vầy: “Nếu sanh ra tư tưởng không khả lạc, không khả ái, không khả niệm, mong sao nó đổi thành khả ái, khả niệm!” Điều này không thể muốn mà được.

Này chư Hiền, chúng sanh nào quả thật sanh ra tư tưởng khả ái, khả niệm; người ấy nghĩ như vầy: “Nếu tư tưởng ta sanh ra khả ái, khả niệm, mong sao nó là pháp thường hằng, vĩnh cửu và không biến dịch!” Điều này cũng không thể muốn mà được. Này chư Hiền, nói mong cầu mà không được là khổ, là do đó mà nói vậy.

Này chư Hiền, nói tóm lại, năm ấm là khổ, là vì lẽ gì mà nói như vậy? Đó là sắc ấm, thọ, tưởng, hành và thức ấm. Này chư Hiền, nói tóm lại, năm ấm là khổ, là do đó mà nói.

Này chư Hiền, thời gian quá khứ là khổ Thánh đế, thời gian vị lai và hiện tại là khổ Thánh đế; đó là điều chắc thật, không hư dối, không xa rời sự thật, cũng chẳng phải điên đảo mà là sự xét đoán một cách chắc thật; những gì hợp với sự chắc thật như vậy là sở hữu của bậc Thánh, sở tri của bậc Thánh, sở kiến của bậc Thánh, sở liễu của bậc Thánh, sở đắc của bậc Thánh, là sự giác ngộ tối thượng chân chánh của bậc Thánh. Do đó, nói khổ Thánh đế.

Thế nào là ái tập, khổ tập Thánh đế? Nghĩa là mọi chúng sanh thật sự có tham ái sáu xứ bên trong, nhãn xứ, nhĩ, tỷ, thiệt, thân và ý xứ. Trong đó, nếu có ái, có cấu bẩn, có nhiễm, có trước thì đó gọi là tập.

Này chư Hiền, đa văn Thánh đệ tử biết rằng: “Ta biết pháp ấy như vậy; thấy như vậy, hiểu rõ như vậy, nhận định như vậy và tri giác như vậy.” Đó là ái tập, khổ tập Thánh đế.

Biết như vậy là biết như thế nào? Nếu có người tham ái vợ con, nô tỳ, kẻ sai bảo, quyến thuộc, ruộng đất, nhà cửa, quán xá, thu và xuất tài vật, tạo tác những nghiệp có ái, có cấu bẩn, có nhiễm, có trước, đó gọi là tập. Người kia biết ái tập, khổ tập Thánh đế này; cũng vậy, đối với xúc, thọ, tưởng, tư, ái thuộc về ngoại xứ cũng lại như vậy.

Này chư Hiền, chúng sanh quả thật có tham ái sáu giới: Địa giới, thủy, hỏa, phong, không và thức giới, trong đó nếu có ái, có cấu bẩn, có nhiễm, có trước thì đó gọi là tập.

Này chư Hiền, đa văn Thánh đệ tử biết rằng: “Ta biết pháp này như vậy, thấy như vậy, hiểu rõ như vậy, nhận định như vậy và tri giác như vậy.” Đó là ái tập, khổ tập Thánh đế.

Biết như vậy là biết thế nào? Nếu có người tham ái vợ con, nô tỳ, kẻ sai bảo, quyến thuộc, ruộng đất, nhà cửa, quán xá, thu và xuất tài vật, tạo tác những nghiệp có ái, có cấu bẩn, có nhiễm, có trước, đó gọi là tập. Người kia biết ái tập, khổ tập Thánh đế này.

Này chư Hiền, thời gian quá khứ là ái tập, khổ tập Thánh đế; thời gian hiện tại và vị lại là ái tập, khổ tập Thánh đế, chắc thật không hư dối và không xa rời sự thật, cũng chẳng phải điên đảo mà là sự thấu xét chắc thật. Thích hợp với Thánh đế như vậy thì đó là sở hữu của bậc Thánh, sở tri, sở kiến, sở liễu, sở đắc của bậc Thánh, là sự giác ngộ tối thượng chân chánh của bậc Thánh. Do đó nên nói là ái tập, khổ tập Thánh đế.

Này chư Hiền, thế nào là ái diệt, khổ diệt Thánh đế? Nghĩa là chúng sanh quả thật có tham ái sáu xứ bên trong, nhãn xứ, nhĩ, tỷ, thiệt, thân và ý xứ; chúng sanh ấy nếu giải thoát, không nhiễm, không trước, đoạn bỏ hoàn toàn, không còn dục, diệt tận, tịch tĩnh, đó gọi là khổ diệt.

Này chư Hiền, đa văn Thánh đệ tử biết rằng: “Ta biết pháp này như vậy, thấy như vậy, hiểu rõ như vậy, nhận định như vậy và tri giác như vậy.” Đó là ái diệt, khổ diệt Thánh đế.

Biết như vậy là biết như thế nào? Nếu có người nào không tham ái vợ con, nô tỳ, kẻ sai bảo, quyến thuộc, ruộng đất, nhà cửa, quán xá, thu xuất tài vật, đó không phải là tạo tác nghiệp; người ấy nếu giải thoát, không nhiễm, không trước, đoạn bỏ hoàn toàn, không còn dục, diệt tận, tịch tĩnh thì đó gọi là Khổ diệt. Sự biết đó là ái diệt, khổ diệt Thánh đế. Cũng thế, xúc, thọ, tưởng, tư, ái thuộc về ngoại xứ cũng lại như vậy.

Này chư Hiền, chúng sanh quả thật có tham ái sáu giới bên ngoài, địa giới, thủy, hỏa, phong, không và thức giới; kẻ ấy nếu giải thoát, không nhiễm, không trước, đoạn bỏ hoàn toàn, không còn dục, diệt tận, tịch tĩnh thì đó gọi là Khổ diệt.

Này chư Hiền, đa văn Thánh đệ tử biết rằng: “Ta biết pháp này như vậy, thấy như vậy, hiểu rõ như vậy, nhận định như vậy và tri giác như vậy.” Đó là ái diệt, khổ diệt Thánh đế.

Biết như vậy là biết như thế nào? Nếu có người nào không tham ái vợ con, nô tỳ, kẻ sai khiến, quyến thuộc, ruộng đất, nhà cửa, quán xá, thu xuất tài vật, không phải là tạo tác nghiệp; người ấy nếu giải thoát, không nhiễm, không trước, đoạn bỏ hoàn toàn, không còn dục, diệt tận, tịch tĩnh thì đó gọi là Khổ diệt. Sự biết đó là ái diệt, khổ diệt Thánh đế.

Này chư Hiền, thời gian quá khứ là ái diệt, khổ diệt Thánh đế; thời gian vị lai và hiện tại là ái diệt, khổ diệt Thánh đế, chắc thật không hư dối và không xa rời như thật, cũng chẳng phải điên đảo mà là sự thẩm xét chắc thật. Thích hợp với Thánh đế như vậy thì đó là sở hữu của bậc Thánh, sở tri, sở kiến, sở liễu, sở đắc của bậc Thánh, là sự giác ngộ chân chánh, tối thượng của bậc Thánh. Do đó nói là ái diệt, khổ diệt Thánh đế.

Này chư Hiền, thế nào là khổ diệt đạo Thánh đế? Đó là chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định.

Này chư Hiền, thế nào là chánh kiến? Đó là khi vị Thánh đệ tử suy niệm về khổ là khổ, tập là tập, diệt là diệt, đạo là đạo, hoặc quan sát về sự tạo tác trước kia của mình, hoặc học suy niệm về các hành, hoặc thấy các hành là tai họa, hoặc thấy Niết-bàn là tịch tĩnh, hoặc khi suy niệm vô trước để quan sát thiện tâm giải thoát, trong đó có sự giản trạch toàn diện, quyết định, giản trạch, giản trạch pháp, nhận định toàn diện, nhận định quán sát minh đạt. Đó là chánh kiến.

Này chư Hiền, thế nào là chánh tư duy? Nghĩa là khi vị Thánh đệ tử suy niệm về khổ là khổ, tập là tập, diệt là diệt, đạo là đạo, hoặc quan sát về sự tạo tác trước kia của mình, hoặc học suy niệm về các hành, hoặc thấy các hành là tai họa, hoặc thấy Niết-bàn là tịch tĩnh, hoặc khi suy niệm vô trước để quan sát thiện tâm giải thoát, trong đó tư sát toàn diện tư sát, tùy thuận tư sát, điều nào nên niệm thì niệm, điều nào nên hy vọng thì hy vọng. Đó là chánh tư duy.

Này chư Hiền, thế nào là chánh ngữ? Nghĩa là khi vị Thánh đệ tử suy niệm về khổ là khổ, tập là tập, diệt là diệt, đạo là đạo, hoặc quan sát về sự tạo tác trước kia của mình, hoặc học suy niệm về các hành, hoặc thấy các hành là tai họa, hoặc thấy Niết-bàn là tịch tĩnh, hoặc khi suy niệm vô trước để quan sát thiện tâm giải thoát, trong đó ngoài bốn diệu hạnh nơi miệng ra còn các ác hạnh khác nơi miệng đều viễn ly và đoạn trừ, không thực hành, không tạo tác, không tập hợp và không tụ hội. Đó là chánh ngữ.

Này chư Hiền, thế nào là chánh nghiệp? Nghĩa là khi vị Thánh đệ tử suy niệm về khổ là khổ, tập là tập, diệt là diệt, đạo là đạo, hoặc quan sát về sự tạo tác trước kia của mình, hoặc học suy niệm về các hành, hoặc thấy các hành là tai họa, hoặc thấy Niết-bàn là tịch tĩnh, hoặc khi suy niệm vô trước để quan sát thiện tâm giải thoát, trong đó ngoài ba diệu hạnh nơi thân, còn các ác hạnh khác nơi thân đều viễn ly, đoạn trừ không thực hành, không tạo tác, không tập hợp, không tụ hội. Đó là chánh nghiệp.

Này chư Hiền, thế nào là chánh mạng? Nghĩa là khi vị Thánh đệ tử suy niệm về khổ là khổ, tập là tập, diệt là diệt, đạo là đạo, hoặc quan sát về sự tạo tác trước kia của mình, hoặc học suy niệm về các hành, hoặc thấy các hành là tai họa, hoặc thấy Niết-bàn là tịch tĩnh, hoặc khi suy niệm vô trước để quan sát thiện tâm giải thoát, trong đó không mong cầu sự vô lý, không do nhiều tham dục nào mà không biết nhàm đủ, không làm các thứ xảo thuật, bùa chú để sanh sống bằng tà mạng, chỉ theo Chánh pháp mà mong cầu y phục chớ không phải với phi pháp, cũng theo Chánh pháp để mong cầu thực phẩm, giường chõng chớ không phải với phi pháp. Đó là chánh mạng.

Này chư Hiền, thế nào là chánh tinh tấn? Nghĩa là khi vị Thánh đệ tử suy niệm về khổ là khổ, tập là tập, diệt là diệt, đạo là đạo, hoặc quan sát về sự tạo tác trước kia của mình, hoặc học suy niệm về các hành, hoặc thấy các hành là tai họa, hoặc thấy Niết-bàn là tịch tĩnh, hoặc khi suy niệm vô trước để quan sát thiện tâm giải thoát, trong đó nếu có phương tiện tinh tấn thì quả quyết, tinh cần để mong cầu, có khả năng để thú hướng, chuyên chú, không xả bỏ, cũng không suy thoái, nhất định hàng phục tâm mình. Đó là chánh tinh tấn.

Này chư Hiền, thế nào là chánh niệm? Nghĩa là khi Thánh đệ tử suy niệm về khổ là khổ, tập là tập, diệt là diệt, đạo là đạo, hoặc quan sát về sự tạo tác trước kia của mình, hoặc học suy niệm về các hành, hoặc thấy các hành là tai họa, hoặc thấy Niết-bàn là tịch tĩnh, hoặc khi suy niệm vô trước để quan sát thiện tâm giải thoát, trong đó nếu tùy thuận niệm, phản chiếu niệm, suy niệm biến mãn suy niệm, ức niệm liên tục ức niệm, tâm niệm tâm niệm không xao lãng. Đó là chánh niệm.

Này chư Hiền, thế nào chánh định? Nghĩa là khi Thánh đệ tử suy niệm về khổ là khổ, tập là tập, diệt là diệt, đạo là đạo, hoặc quan sát về sự tạo tác trước kia của mình, hoặc học suy niệm về các hành, hoặc thấy các hành là tai họa, hoặc thấy Niết-bàn là tịch tĩnh, hoặc khi suy niệm vô trước để quan sát thiện tâm giải thoát, trong đó nếu tâm trụ, thiền trụ, thuận trụ, không loạn, không tán, chuyên nhất, chánh định. Đó là chánh định.

Này chư Hiền, thời gian quá khứ là khổ diệt đạo Thánh đế; thời gian vị lai và hiện tại là khổ diệt đạo Thánh đế; chắc chắn không hư dối, không xa rời sự thật, cũng chẳng điên đảo, thấu xét chắc thật, thích hợp với sự chắc chắn, như vậy sẽ là sở hữu của bậc Thánh, sở tri, sở kiến, sở liễu, sở đắc, giác ngộ tối thượng chân chánh của bậc Thánh. Do đó nói là khổ diệt đạo Thánh đế.

Rồi Tôn giả nói bài tụng rằng:

Phật thấu triệt các pháp,    Thấy vô lượng thiện đức, 

Khổ, tập, diệt, đạo đế,        Khéo hiển hiện, phân biệt.

Tôn giả Xá-lợi-phất thuyết như vậy, các Tỳ-kheo sau khi nghe Tôn giả Xá lợi-phất dạy, hoan hỷ phụng hành.

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.