Viện Nghiên Cứu Phật Học

Tam tạng Thánh điển PGVN 18 » Tam tạng Phật giáo Bộ phái 02 » 

Kinh Trung A-Hàm
(中阿含經)

Dịch tiếng Việt: VIỆN CAO ĐẲNG PHẬT HỌC HẢI ĐỨC - NHA TRANG
Hiệu đính: Hòa Thượng THÍCH THIỆN SIÊU

Mục Lục

30. KINH TƯỢNG TÍCH DỤ

Tôi nghe như vầy:

Một thời, đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng Lâm, vườn Cấp Cô Độc.

Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất bảo các Tỳ-kheo rằng:

- Này chư Hiền, nếu có vô lượng thiện pháp thì tất cả những pháp ấy đều thâu nhiếp vào bốn Thánh đế, đi vào trong bốn Thánh đế; nghĩa là trong tất cả pháp, bốn Thánh đế là pháp tối thượng bậc nhất. Vì sao thế? Vì bốn Thánh đế bao gồm tất cả thiện pháp.

Này chư Hiền, cũng như dấu chân của các loài thú thì dấu chân voi là bậc nhất. Vì sao thế? Vì dấu chân voi ấy rất to lớn vậy.

Cũng vậy, này chư Hiền, có vô lượng thiện pháp thì tất cả pháp ấy đều thâu nhiếp vào bốn Thánh đế, đi vào trong bốn Thánh đế; nghĩa là trong tất cả pháp, bốn Thánh đế là pháp tối thượng bậc nhất.

Những gì là bốn? Đó là khổ Thánh đế, khổ tập, khổ diệt và khổ diệt đạo Thánh đế.

Này chư Hiền, thế nào là khổ Thánh đế? Nghĩa là sanh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, thù ghét mà gặp nhau là khổ, yêu thương mà xa lìa là khổ, mong cầu mà không được là khổ; nói tóm lại, năm ấm là khổ.

Này chư Hiền, thế nào là năm ấm là khổ? Nghĩa là sắc ấm, thọ, tưởng, hành và thức ấm.

Này chư Hiền, thế nào là sắc ấm? Nghĩa là những gì có sắc, tất cả bốn đại và do bốn đại tạo thành.

Này chư Hiền, thế nào là bốn đại? Nghĩa là đất, nước, lửa và gió.

Này chư Hiền, thế nào là địa giới? Này chư Hiền, địa giới có hai: Có nội địa giới và ngoại địa giới.

Này chư Hiền, thế nào là nội địa giới? Nghĩa là ở trong thân, được thâu nhiếp trong thân những gì cứng, thuộc loại cứng, cố định, bị chấp thủ bên trong. Đó là những gì? Là tóc, lông, móng, răng, da thô hay mịn, da non, thịt, gân, xương, tim, thận, gan, phổi, lá lách, ruột, bao tử, phẩn; và tương tự như vậy, những thứ khác ở trong thân, được thâu nhiếp bên trong cứng, thuộc loại cứng, cố định, bị chấp thủ bên trong; ấy là nội địa giới.

Này chư Hiền, ngoại địa giới nghĩa là đại, là tịnh, là không tắng ố.

Này chư Hiền, có lúc bị thủy tai, khi ấy tiêu diệt cả ngoại địa giới. Này chư Hiền, ngoại địa giới này cực đại, cực tịnh, cực bất tắng ố. Đó là pháp vô thường, pháp cùng tận, pháp suy yếu, pháp biến dịch; huống nữa xác thân tạm bợ này bị chấp thủ bởi ái. Nghĩa là kẻ phàm phu ngu si, không đa văn nghĩ như vầy: “Đây là ta, đây là tự ngã của ta, đây là của ta.” Còn đa văn Thánh đệ tử không suy nghĩ như thế: “Đây là ta, đây là tự ngã của ta, đây là của ta.” Vị ấy vì sao nghĩ như vậy? Nếu có người khác mắng chửi, đánh đập, giận dữ, quở trách thì vị ấy nghĩ: “Cái khổ đến với mình đây là sanh ra từ nhân duyên, chớ chẳng phải không sanh ra từ nhân duyên.” Cái gì là duyên? Duyên vào khổ xúc vậy. Vị ấy cũng quán xúc này là vô thường, rồi quán thọ, tưởng, hành, thức đều là vô thường. Tâm vị ấy duyên nơi đối tượng mà trụ, mà chỉ, mà hiệp, mà nhất tâm, mà định, mà không lay động. Sau đó, có người đến nói với vị ấy bằng lời lẽ dịu dàng; vị ấy suy nghĩ như vầy: “Cái khổ đến với mình đây là sanh ra từ nhân duyên, chớ chẳng phải không sanh ra từ nhân duyên.” Duyên là gì? Duyên vào lạc xúc vậy. Vị ấy quán xúc này là vô thường, rồi quán thọ, tưởng, hành, thức cũng vô thường. Tâm vị ấy duyên nơi đối tượng mà trụ, mà chỉ, mà hiệp, mà nhất tâm, mà định, mà không lay động. Sau đó, hoặc có người thơ ấu, thiếu niên, trung niên hay trưởng lão đến làm điều không vừa ý đối với vị ấy: Hoặc nắm tay thoi, hoặc lấy đá ném, hoặc dùng dao đâm, gậy đập. Vị ấy suy nghĩ thế này: “Ta thọ thân này vốn là sắc pháp, là thô chất, thuộc bốn đại chủng, do cha mẹ sanh, được nuôi dưỡng bằng ăn uống, được che kín bởi y phục, được chăm sóc bằng tắm rửa, nằm ngồi bồng bế; nó là pháp bị hư hoại, là pháp bị diệt tận, là pháp ly tán. Ta vì thân này mà đến nỗi bị tay thoi, đá ném, dao đâm, gậy đập.” Do ý nghĩ đó, vị kia rất siêng năng, không biếng nhác, chánh thân, chánh niệm, không nhuế, không si, nhất tâm, an định. Vị ấy nghĩ thế này: “Ta siêng năng, không biếng nhác, chánh tâm, chánh niệm, không nhuế, không si, nhất tâm, an định; ta thọ thân này dù cho bị tay thoi, đá ném, dao đâm, gậy đập cũng chỉ nên siêng năng học giáo pháp của đức Thế Tôn.”

Này chư Hiền, đức Thế Tôn cũng nói như vầy: “Giả sử có kẻ giặc cầm cưa hay dao bén xẻ vụn thân thể ra. Nếu các thầy bị kẻ giặc cầm cưa hay dao bén xẻ vụn thân thể ra, lúc ấy hoặc tâm dao động, hoặc nói năng hung dữ, tức các thầy đã suy thoái. Các thầy nên nghĩ như vầy: ‘Giả sử có kẻ giặc cầm cưa hay dao bén xẻ vụn thân thể ta ra, mong sao nhân đó mà tâm ta không dao động, không nói năng hung dữ mà khởi tâm ai mẫn đối với người đã đến xẻ vụn thân thể ta ra. Do người đó nên tâm ta tương ưng với từ, biến mãn một phương, thành tựu an trú; cũng thế, với hai, ba, bốn phương, tứ duy thượng hạ, biến mãn tất cả; tâm tương ưng với từ, không kết, không oán, không nhuế, không tranh, quảng đại vô biên, vô lượng, khéo tu tập, biến mãn tất cả thế gian, thành tựu an trú.’”

Này chư Hiền, thầy Tỳ-kheo kia, nếu nương Phật, Pháp và Đại chúng mà vẫn không an trú thiện, tương ưng với xả, thì này chư Hiền, thầy Tỳ-kheo ấy nên xấu hổ, thẹn thùng và nghĩ: “Ta ở trong sự lợi ích mà không được lợi ích, ở trong đức mà không có đức; nghĩa là ta nương Phật, Pháp và Đại chúng mà vẫn không an trú nơi thiện, tương ưng với xả.”

Này chư Hiền, như người dâu lúc mới rước về gặp mặt cha mẹ chồng, hay gặp người chồng của mình thì xấu hổ, thẹn thùng. Này chư Hiền, nên biết rằng, thầy Tỳ-kheo cũng lại như vậy nên xấu hổ, thẹn thùng và nghĩ: “Ta ở trong sự lợi ích mà không được lợi ích, ở trong đức mà không có đức; nghĩa là ta nương Phật, Pháp và Đại chúng mà vẫn không an trú nơi thiện, tương ưng với xả.” Người ấy, do xấu hổ, thẹn thùng nên liền an trú nơi thiện, tương ưng với xả; đó là diệu, là tĩnh, là tịch diệt, nghĩa là xả tất cả hữu, lìa ái, vô dục, diệt tận hoàn toàn. Này chư Hiền, đó là thầy Tỳ-kheo học về tất cả đại.

Này chư Hiền, thế nào thủy giới? Ở đây, thủy giới có hai: Nội thủy giới và ngoại thủy giới.

Này chư Hiền, thế nào là nội thủy giới? Đó là nước ở trong thân, được thâu nhiếp bên trong thân, tính của nước là ẩm ướt, chứa đựng ở trong thân. Đó là những gì? Là mỡ óc, nước mắt, mồ hôi, nước mũi, nước miếng, mủ máu, mỡ, tủy, nước dãi, nước mật, nước tiểu; và tương tự như vậy, tất cả những chất nước khác, thuộc ở trong thân này, được thâu nhiếp bên trong thân, thuộc loại nước, ẩm ướt, bị chấp thủ bên trong. Này chư Hiền, đó là nội thủy giới.

Này chư Hiền, ngoại thủy giới đó là đại, là tịnh, là không tắng ố. Này chư Hiền, có lúc bị hỏa tai, lúc đó ngoại thủy giới bị tiêu diệt. Này chư Hiền, ngoại thủy giới rất lớn, rất tịnh, rất bất tắng ố; đó là pháp vô thường, pháp đoạn diệt, pháp suy yếu, pháp biến dịch; huống gì cái thân tạm bợ này bị chấp thủ bởi ái. Nghĩa là có kẻ phàm phu ngu si, không học, suy nghĩ như vầy: “Đây là ta, đây là tự ngã của ta, đây là của ta.” Còn đa văn Thánh đệ tử không nghĩ: “Đây là ta, đây là tự ngã của ta, đây là của ta.” Vị ấy vì sao nghĩ như vậy? Nếu có người khác mắng chửi, đánh đập, giận dữ, quở trách thì vị ấy nghĩ như vầy: “Cái khổ đến với mình đây là sanh ra từ nhân duyên, chớ chẳng phải là không sanh ra từ nhân duyên.” Duyên là gì? Duyên vào khổ xúc vậy. Vị ấy quán xúc này là vô thường, quán thọ, tưởng, hành, thức cũng vô thường. Tâm vị ấy duyên nơi đối tượng mà trú, mà chỉ, mà hiệp, mà nhất tâm, mà định, mà không lay động. Vào lúc khác, có người đến nói với vị ấy bằng lời lẽ dịu dàng; vị ấy suy nghĩ như vầy: “Cái lạc đến với mình đây là sanh ra từ nhân duyên, chớ chẳng phải là không sanh ra từ nhân duyên.” Thế nào là duyên? Duyên vào lạc xúc vậy. Vị ấy quán xúc này là vô thường, quán thọ, tưởng, hành, thức cũng vô thường. Tâm vị ấy duyên nơi đối tượng mà trú, mà chỉ, mà hiệp, mà nhất tâm, mà định, mà không lay động. Sau đó, hoặc có người thơ ấu, thiếu niên, tráng niên hay trưởng lão đến làm điều không vừa ý đối với vị ấy: Hoặc nắm tay thoi, hoặc lấy đá ném, hoặc dùng dao đâm, gậy đập. Vị ấy suy nghĩ thế này: “Ta thọ thân này vốn là do sắc pháp, thô chất, thuộc bốn đại chủng, do cha mẹ sanh, được nuôi dưỡng bằng ăn uống, được che kín bởi y phục, được chăm sóc bằng xoa bóp, tắm rửa; nó là pháp hư hoại, là pháp đoạn diệt, là pháp ly tán. Ta vì thân này mà đến nỗi bị tay thoi, đá ném, dao đâm, gậy đập.” Do lẽ đó, vị kia rất siêng năng, không biếng nhác, chánh thân, chánh niệm, không nhuế, không si, nhất tâm an định. Vị ấy nghĩ thế này: “Ta rất siêng năng, không biếng nhác, chánh thân, chánh niệm, không nhuế, không si, nhất tâm an định; ta thọ thân này dù bị tay thoi, đá ném, dao đâm, gậy đập, cũng chỉ nên siêng năng học giáo pháp của đức Thế Tôn.”

Này chư Hiền, đức Thế Tôn cũng nói như vầy: “Giả sử có kẻ giặc cầm cưa hay dao bén xẻ vụn thân thể ra. Nếu các thầy bị kẻ giặc cầm cưa hay dao bén xẻ vụn thân thể ra, lúc ấy hoặc tâm biến dịch, hoặc nói năng hung dữ, tức là các thầy đã suy thoái. Các thầy nên suy nghĩ như vầy: ‘Giả sử có kẻ giặc cầm cưa hay dao bén xẻ vụn thân thể ta ra, mong sao nhân đó mà tâm ta không biến dịch, không nói năng hung dữ, hãy khởi tâm ai mẫn đối với người xẻ vụn thân thể ta ra. Nhờ người đó nên tâm ta tương ưng với từ, biến mãn một phương, thành tựu an trú; cũng thế, với hai, ba, bốn phương, tứ duy thượng hạ, biến mãn tất cả; tâm tương ưng với từ, không kết, không oán, không nhuế, không tránh, quảng đại, vô biên, vô lượng, khéo tu tập, biến mãn tất cả thế gian, thành tựu an trú.’”

Này chư Hiền, thầy Tỳ-kheo kia nương Phật, Pháp và Đại chúng mà vẫn không an trú nơi thiện, tương ưng với xả, thì này chư Hiền, thầy Tỳ-kheo ấy nên xấu hổ, thẹn thùng và nghĩ: “Ta ở trong lợi ích mà không được lợi ích, ở trong đức mà không có đức; nghĩa là ta nhờ Phật, Pháp và Đại chúng mà vẫn không an trú nơi thiện, tương ưng với xả.”

Này chư Hiền, như người dâu lúc mới rước về gặp mặt cha mẹ chồng, hay gặp người chồng của mình thì xấu hổ, thẹn thùng. Này chư Hiền, nên biết rằng, thầy Tỳ-kheo cũng lại như vậy nên xấu hổ, thẹn thùng và nghĩ: “Ta ở trong lợi ích mà không lợi ích, ở trong đức mà không có đức; nghĩa là ta nhờ Phật, Pháp và Đại chúng mà vẫn không an trú nơi thiện, tương ưng với xả.” Người ấy do xấu hổ, thẹn thùng nên thường an trú nơi thiện, tương ưng với xả; đó là diệu, là tĩnh, là tịch diệt, nghĩa là xả tất cả hữu, lìa ái, vô dục, diệt tận hoàn toàn. Này chư Hiền, đó là thầy Tỳ-kheo học về tất cả đại.

Này chư Hiền, thế nào là hỏa giới? Này chư Hiền, ở đây hỏa giới có hai: Nội hỏa giới và ngoại hỏa giới.

Này chư Hiền, thế nào là nội hỏa giới? Đó là lửa ở trong thân, được thâu nhiếp trong thân, những gì là hỏa thuộc tánh nóng, bị chấp thủ bên trong. Đó là những gì? Nóng bức nơi thân, phiền muộn, sự ấm áp, tráng kiện, tiêu hóa đồ ăn; và tương tự như vậy, những thứ lửa khác ở trong thân, được thâu nhiếp trong thân, tánh lửa nóng, bị chấp thủ bên trong. Này chư Hiền, đó là nội hỏa giới.

Này chư Hiền, ngoại hỏa giới là đại, là tịnh, là không tắng ố. Này chư Hiền, có lúc ngoại hỏa giới phát khởi lên, khi phát khởi rồi thì thiêu đốt xóm ấp, thành quách, núi rừng, đồng nội, diệt các thứ đó rồi, hoặc đến đường đến nước thì bị tắt. Này chư Hiền, sau khi ngoại hỏa giới tắt, nhân dân tìm lửa, hoặc cọ cây lấy lửa, chặt tre, hoặc dùng ngọc lấy lửa. Này chư Hiền, ngoại hỏa giới này cực đại, cực tịnh, cực bất tắng ố; đó là pháp vô thường, là pháp đoạn diệt, là pháp suy yếu, là pháp biến dịch; huống gì là cái thân tạm bợ này bị chấp thủ bởi ái này. Nghĩa là có kẻ phàm phu ngu si, không học, suy nghĩ như vầy: “Đây là ta, đây là tự ngã của ta, đây là của ta.” Còn đa văn Thánh đệ tử không nghĩ như vầy: “Đây là ta, đây là tự ngã của ta, đây là của ta.” Vị ấy vì sao nghĩ như vậy? Nếu có người khác mắng chửi, đánh đập, giận dữ, quở trách thì vị ấy nghĩ như vầy: “Cái khổ đến với mình đây là sanh ra từ nhân duyên, chớ chẳng phải là không sanh ra từ nhân duyên.” Cái gì là duyên? Duyên vào khổ xúc vậy. Vị ấy quán xúc này là vô thường, quán thọ, tưởng, hành, thức cũng vô thường. Tâm vị ấy duyên nơi đối tượng mà trú, mà chỉ, mà hiệp, mà nhất tâm, mà định, mà không lay động. Sau đó, có người đến nói với vị ấy bằng lời lẽ dịu dàng; vị ấy suy nghĩ như vầy: “Cái lạc đến với mình đây sanh ra từ nhân duyên, chớ chẳng phải là không sanh ra từ nhân duyên.” Thế nào là duyên? Duyên vào lạc xúc vậy. Vị ấy quán xúc này là vô thường, quán thọ, tưởng, hành, thức cũng vô thường. Tâm vị ấy duyên nơi đối tượng mà trú, mà chỉ, mà hiệp, mà nhất tâm, mà định, mà không lay động. Sau đó, hoặc có người thơ ấu, thiếu niên, tráng niên hay trưởng lão đến làm điều không vừa ý đối với vị ấy: Hoặc nắm tay thoi, hoặc lấy đá ném, hoặc dùng dao đâm, gậy đập. Vị ấy suy nghĩ thế này: “Ta thọ thân này vốn là do sắc pháp, thô chất, thuộc bốn đại chủng, do cha mẹ sanh, được nuôi dưỡng bằng ăn uống, được che kín bởi y phục, được chăm sóc bằng tắm rửa, xoa bóp; nó là pháp hư hoại, là pháp đoạn diệt, là pháp ly tán. Ta vì thân này mà đến nỗi bị tay thoi, đá ném, dao đâm, gậy đập.” Do lẽ đó vị kia rất siêng năng, không biếng nhác, chánh thân, chánh niệm, không nhuế, không si, nhất tâm an định. Vị ấy nghĩ thế này: “Ta rất siêng năng, không biếng nhác, chánh thân, chánh niệm, không nhuế, không si, nhất tâm an định; ta thọ thân này đáng để cho tay thoi, đá ném, dao đâm, chỉ nên siêng năng học giáo pháp của đức Thế Tôn.”

Này chư Hiền, đức Thế Tôn cũng nói như vầy: “Giả sử có kẻ giặc cầm cưa hay dao bén xẻ vụn thân thể ra. Nếu các thầy bị kẻ giặc cầm cưa hay dao bén xẻ vụn thân thể ra, lúc ấy hoặc tâm biến dịch, hoặc nói năng hung dữ, tức là các thầy đã suy thoái. Các thầy nên suy nghĩ như vầy: ‘Nếu có kẻ giặc cầm cưa hay dao bén xẻ vụn thân thể ta ra, mong sao nhân đó mà tâm ta không biến dịch, không nói năng hung dữ, hãy khởi tâm ai mẫn đối với người xẻ vụn thân thể ta ra. Nhờ người đó nên tâm tương ưng với từ, biến mãn một phương, thành tựu an trú; cũng thế, với hai, ba, bốn phương, tứ duy thượng hạ, biến mãn tất cả; tâm tương ưng với từ, không kết, không oán, không nhuế, không tránh, quảng đại, vô biên, vô lượng, khéo tu tập, biến mãn khắp cả thế gian, thành tựu an trú.”

Này chư Hiền, nếu thầy Tỳ-kheo kia nương Phật, Pháp và Đại chúng mà vẫn không an trú nơi thiện, tương ưng với xả, thì này chư Hiền, thầy Tỳ-kheo ấy nên xấu hổ, thẹn thùng và nghĩ: “Ta ở trong lợi ích mà không được lợi ích, ở trong đức mà không có đức; nghĩa là ta nhờ Phật, Pháp và Đại chúng mà vẫn không an trú nơi thiện, tương ưng với xả.”

Này chư Hiền, như người dâu lúc mới rước về gặp mặt cha mẹ chồng, hay gặp người chồng của mình thì xấu hổ, thẹn thùng. Này chư Hiền, nên biết rằng, thầy Tỳ-kheo cũng lại như vậy nên xấu hổ, thẹn thùng và nghĩ: “Ta ở trong lợi ích mà không được lợi ích, ở trong đức mà không có đức; nghĩa là ta nhờ Phật, Pháp và Đại chúng mà vẫn không an trú nơi thiện, tương ưng với xả.” Người ấy do xấu hổ, thẹn thùng nên liền an trú nơi thiện, tương ưng với xả; đó là diệu, là tĩnh, là tịch diệt, nghĩa là xả tất cả hữu, lìa ái, vô dục, diệt tận hoàn toàn. Này chư Hiền, đó là thầy Tỳ-kheo học về tất cả đại.

Này chư Hiền, thế nào là phong giới? Này chư Hiền, ở đây, phong giới có hai: Nội phong giới và ngoại phong giới.

Này chư Hiền, thế nào là nội phong giới. Đó là gió ở trong thân, được thâu nhiếp trong thân, những gì là gió thuộc tính chất chuyển động, bị chấp thủ bên trong. Đó là những gì? Là gió trên, gió dưới, gió trong bụng, gió ngang hông, gió co thắt lại, gió dao, gió nhảy lên, gió phi đạo, gió thổi qua tay chân, gió của hơi thở ra, gió của hơi thở vô; và tương tự như vậy, những thứ khác ở trong thân, được thâu nhiếp trong thân, thuộc loại gió chuyển động, bị chấp thủ bên trong. Này chư Hiền, đó là nội phong giới.

Này chư Hiền, ngoại phong giới là đại, là tịnh, là không tắng ố. Này chư Hiền, có lúc ngoại phong giới phát khởi lên, khi phát khởi rồi thì nhà sập, cây tróc, núi lở, khi núi non đã lở rồi gió liền đứng lại, mảy lông cũng chẳng lay động. Này chư Hiền, sau khi ngoại phong giới dừng lại, nhân dân tìm kiếm gió, hoặc dùng quạt, hoặc dùng lá đa-la, hoặc dùng áo tìm gió. Này chư Hiền, phong giới này cực đại, cực tịnh, cực bất tắng ố; đó là pháp vô thường, là pháp đoạn diệt, là pháp suy yếu, là pháp biến dịch; huống là xác thân tạm bợ, bị chấp thủ bởi ái này. Nghĩa là kẻ phàm phu ngu si, không đa văn nghĩ như vầy: “Đây là ta, đây là tự ngã của ta, đây là của ta.” Còn đa văn Thánh đệ tử không suy nghĩ như thế: “Đây là ta, đây là tự ngã của ta, đây là của ta.” Vị ấy vì sao nghĩ như vậy? Nếu có người khác mắng chửi, đánh đập, giận dữ, quở trách thì vị ấy nghĩ như vậy: “Cái khổ đến với mình đây là sanh ra từ nhân duyên, chớ chẳng phải là không sanh ra từ nhân duyên.” Cái gì là duyên? Duyên vào khổ xúc vậy. Vị ấy quán xúc này là vô thường, quán thọ, tưởng, hành, thức cũng vô thường. Tâm vị ấy duyên nơi đối tượng mà trú, mà chỉ, mà hiệp, mà nhất tâm, mà định, mà không lay động. Sau đó, có người đến nói với vị ấy bằng lời lẽ dịu dàng, vị ấy suy nghĩ như vầy: “Cái lạc đến với mình đây là sanh ra từ nhân duyên, chớ chẳng phải là không sanh ra từ nhân duyên.” Thế nào là duyên? Duyên vào lạc xúc vậy. Vị ấy quán xúc này là vô thường, quán thọ, tưởng, hành, thức cũng vô thường. Tâm vị ấy duyên nơi đối tượng mà trú, mà chỉ, mà hiệp, mà nhất tâm, mà định, mà không lay động. Sau đó, hoặc có người thơ ấu, thiếu niên, trung niên hay trưởng lão đến làm điều không vừa ý đối với vị ấy: Hoặc nắm tay thoi, hoặc lấy đá ném, hoặc dùng dao đâm, gậy đập. Vị ấy suy nghĩ thế này: “Ta thọ thân này vốn là do sắc pháp, thô chất, thuộc bốn đại chủng, do cha mẹ sanh, được nuôi dưỡng bằng ăn uống, được che kín bằng y phục, được chăm sóc bằng tắm rửa, xoa bóp; nó là pháp hư hoại, là pháp đoạn diệt, là pháp ly tán. Ta vì thân này mà đến nỗi bị tay thoi, đá ném, dao đâm, gậy đập.” Do lẽ đó vị kia rất siêng năng, không biếng nhác, chánh thân, chánh niệm, không nhuế, không si, nhất tâm an định, vị ấy nghĩ như thế này: “Ta rất siêng năng, không biếng nhác, chánh thân, chánh niệm, không nhuế, không si, nhất tâm an định; ta thọ thân này đáng để cho tay thoi, đá ném, dao đâm, gậy đập, chỉ nên siêng năng học giáo pháp của đức Thế Tôn.”

Này chư Hiền, đức Thế Tôn cũng nói như vầy: “Giả sử có giặc đến cầm cưa hay dao bén xẻ vụn thân thể ra. Nếu các thầy bị kẻ giặc cầm cưa hay dao bén xẻ vụn thân thể ra, lúc ấy hoặc tâm biến dịch, hoặc nói năng hung dữ, tức các thầy đã suy thoái. Các thầy nên nghĩ như vầy: ‘Giả sử có kẻ giặc đến cầm cưa hay dao bén xẻ vụn thân thể ta ra, mong sao nhân đó mà tâm ta không biến dịch, không nói năng hung dữ, hãy khởi tâm ai mẫn đối với người đến xẻ vụn thân thể ta ra. Nhờ người đó nên tâm ta tương ưng với từ, biến mãn một phương, thành tựu an trú; cũng thế, với hai, ba, bốn phương, tứ duy thượng hạ, biến mãn tất cả; tâm tương ưng với từ, không kết, không oán, không nhuế, không tránh, quảng đại, vô biên, vô lượng, khéo tu tập, biến mãn tất cả thế gian, thành tựu an trú.’”

Này chư Hiền, thầy Tỳ-kheo kia nếu nương Phật, Pháp và Đại chúng mà vẫn không an trú nơi thiện, tương ưng với xả, thì này chư Hiền, thầy Tỳ-kheo ấy nên hổ thẹn nên xấu hổ và nghĩ: “Ta ở trong sự lợi ích mà không được lợi ích, ở trong đức mà không có đức; nghĩa là ta nhờ Phật, Pháp và Đại chúng mà vẫn không an trú nơi thiện, tương ưng với xả.”

Này chư Hiền, như người dâu lúc mới rước về gặp mặt cha mẹ chồng, hay gặp người chồng của mình thì xấu hổ, thẹn thùng. Này chư Hiền, nên biết rằng, thầy Tỳ-kheo cũng lại như vậy nên xấu hổ, thẹn thùng nghĩ: “Ta ở trong sự lợi ích mà không được lợi ích, ở trong đức mà không có đức; nghĩa là ta nhờ Phật, Pháp và Đại chúng mà vẫn không an trú nơi thiện, tương ưng với xả.” Người ấy do hổ thẹn, xấu hổ nên liền an trú nơi thiện, tương ưng với xả; đó là diệu, là tĩnh, là tịch diệt, nghĩa là xả tất cả hữu, lìa ái, vô dục, diệt tận hoàn toàn. Này chư Hiền, đó là thầy Tỳ-kheo học về tất cả đại.

Này chư Hiền, cũng như nhờ cây gỗ, nhờ bùn đất, nhờ cỏ nước che kín trên một khoảng không nên sanh ra danh từ “nhà”. Chư Hiền nên biết, thân này cũng lại như vậy, nhờ gân cốt, nhờ da dẻ, nhờ thịt máu, vây kín một khoảng không nên sanh ra danh từ “thân”.

Này chư Hiền, như có người bị hư mắt nên ngoại sắc không được ánh sáng rọi đến, thành ra không có niệm, và do đó nhãn thức không sanh ra được. Này chư Hiền, nếu con mắt không bị hư hoại thì ngoại sắc sẽ được ánh sáng rọi đến và liền có niệm nên nhãn thức được sanh ra.

Này chư Hiền, con mắt và sắc, cùng với nhãn thức biết ngoại sắc; đó thuộc về sắc ấm. Nếu có thọ thì đó là thọ ấm, nếu có tưởng thì đó là tưởng ấm, nếu có tư thì đó là tư ấm, nếu có thức thì đó là thức ấm. Như vậy, quan sát sự hội hiệp của các ấm.

Này chư Hiền, đức Thế Tôn cũng nói như vầy: “Nếu ai thấy duyên khởi tức thấy pháp, nếu thấy pháp tức thấy duyên khởi.” Vì sao thế? Này chư Hiền, đức Thế Tôn dạy năm ấm từ nhân duyên sanh, sắc ấm, thọ, tưởng, hành, thức ấm cũng vậy.

Này chư Hiền, nếu nhĩ, tỷ, thiệt, thân và ý xứ bên trong bị hư hoại thì các pháp bên ngoài sẽ không được ánh sáng rọi đến nên không có niệm; do đó, ý thức không sanh khởi được. Này chư Hiền, nếu nội ý xứ không bị hư hoại thì pháp bên ngoài sẽ được ánh sáng rọi đến và liền có niệm nên ý thức được sanh ra.

Này chư Hiền, ý xứ bên trong và pháp cùng với ý thức biết sắc pháp bên ngoài, đó thuộc về sắc ấm, nếu có thọ thì đó là thọ ấm, nếu có tưởng thì đó là tưởng ấm, nếu có tư thì đó là tư ấm, nếu có thức thì đó là thức ấm. Quán sát sự hội hiệp của các ấm như vậy.

Này chư Hiền, đức Thế Tôn cũng nói như vầy: “Nếu ai thấy duyên khởi tức thấy pháp, nếu thấy pháp tức thấy duyên khởi.” Vì sao thế? Này chư Hiền, đức Thế Tôn dạy năm ấm từ nhân duyên sanh, sắc ấm, thọ, tưởng, hành và thức ấm cũng vậy. Vị ấy nhàm chán năm ấm này trong ba đời: Quá khứ, vị lai, hiện tại; nhàm chán rồi liền vô dục, vô dục rồi liền giải thoát, giải thoát rồi liền biết giải thoát, biết một cách như thật rằng: “Sự sanh đã dứt, Phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa.”

Này chư Hiền, đó là thầy Tỳ-kheo học về tất cả đại.

Tôn giả Xá-lợi-phất giảng như vậy, các thầy Tỳ-kheo nghe Tôn giả Xá-lợiphất giảng xong, hoan hỷ phụng hành.

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.