Viện Nghiên Cứu Phật Học

Tam tạng Thánh điển PGVN 18 » Tam tạng Phật giáo Bộ phái 02 » 

Kinh Trung A-Hàm
(中阿含經)

Dịch tiếng Việt: VIỆN CAO ĐẲNG PHẬT HỌC HẢI ĐỨC - NHA TRANG
Hiệu đính: Hòa Thượng THÍCH THIỆN SIÊU

Mục Lục

20. KINH BA-LA-LAO

Tôi nghe như vầy:

Một thời, đức Phật du hóa tại Câu-lệ-sấu cùng với đại chúng Tỳ-kheo đi đến Bắc thôn, trụ ở phía Bắc của Bắc thôn, trong rừng Thi-nhiếp-hòa.

Bấy giờ, Ba-la-lao Già-di-ni nghe rằng: “Sa-môn Cù-đàm thuộc dòng họ Thích, bỏ tông tộc họ Thích để xuất gia học đạo, đang du hóa ở Câu-lệ-sấu, cùng với đại chúng Tỳ-kheo đi đến Bắc thôn, trụ ở phía Bắc của Bắc thôn, trong rừng Thi-nhiếp-hòa. Vị Sa-môn Cù-đàm ấy có tiếng tăm lớn, đồn khắp mười phương. Sa-môn Cù-đàm là bậc Như Lai, Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhơn Sư, Phật, Chúng Hựu. Vị ấy ở giữa chư Thiên, Ma, Phạm, Sa-môn, Phạm chí, từ người đến trời trong thế gian này mà tự tri, tự giác, tự chứng, thành tựu và an trú. Vị ấy nếu có thuyết pháp thì sơ thiện, trung thiện, cứu cánh cũng thiện, có nghĩa, có văn, đầy đủ Phạm hạnh, hiển hiện thanh tịnh. Nếu được yết kiến đức Như Lai, Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác để tôn trọng, lễ bái, cúng dường và thờ kính thì thật là sung sướng, được sự lợi ích an lành. Người ta suy nghĩ rằng: ‘Nên đến yết kiến Sa-môn Cù-đàm để lễ bái, cúng dường.’” Ba-la-lao Già-di-ni nghe như vậy, rồi từ Bắc thôn ra đi, về hướng Bắc đi đến rừng Thi-nhiếp-hòa, muốn yết kiến Thế Tôn để lễ bái, cúng dường. Ba-la-lao Già-di-ni từ xa trông thấy Thế Tôn ở trong rừng cây, đoan nghiêm, đẹp đẽ như mặt trăng giữa đám tinh tú, sáng suốt, chói lọi, rực rỡ như tòa núi vàng, đầy đủ tướng hảo, uy thần nguy nguy, các căn tịch tịnh, không gì ngăn che, thành tựu sự điều ngự, tức tâm tĩnh mặc. Ba-la-lao Già-di-ni từ xa trông thấy đức Thế Tôn, rồi đến trước chỗ Thế Tôn, cùng chào hỏi rồi ngồi xuống một phía, thưa với Thế Tôn rằng:

– Tôi nghe Sa-môn Cù-đàm biết huyễn thuật và là nhà huyễn thuật. Thưa Cù-đàm, nếu ai nói như vầy: “Sa-môn Cù-đàm biết huyễn thuật và là nhà huyễn thuật” thì người ấy không hủy báng Sa-môn Cù-đàm chăng? Người ấy nói chân thật chăng? Người ấy nói đúng chăng? Người ấy nói pháp như pháp chăng? Đối với như pháp không có lỗi lầm, không bị chỉ trích chăng?

Đức Thế Tôn đáp:

– Này Già-di-ni, nếu ai nói như vầy: “Sa-môn Cù-đàm biết huyễn thuật và là nhà huyễn thuật” thì người ấy không hủy báng Sa-môn Cù-đàm, người ấy nói chân thật, người ấy nói đúng, người ấy nói pháp như pháp, đối với như pháp không có lỗi lầm, không bị chỉ trích. Vì sao thế? Này Già-di-ni, Ta biết huyễn thuật ấy, nhưng chính Ta không phải là nhà huyễn thuật.

Già-di-ni nói:

– Các Sa-môn, Phạm chí kia đều nói chân thật, nhưng tôi không tin, họ nói rằng: “Sa-môn Cù-đàm biết huyễn thuật và là nhà huyễn thuật.”

Đức Thế Tôn bảo:

– Này Già-di-ni, nếu người nào biết huyễn thuật thì người đó tức là nhà huyễn thuật chăng?

Già-di-ni thưa:

– Quả thật vậy, bạch Thế Tôn! Quả thật vậy, bạch Thiện Thệ!

Đức Thế Tôn dạy:

– Này Già-di-ni, ông đừng tự lầm lẫn mà hủy báng Ta. Nếu hủy báng Ta thì chỉ tự gây tổn hại, có sự não hại, có xúc phạm, điều mà Hiền thánh ghét bỏ và bị tội lớn. Vì sao thế? Này Già-di-ni, điều ấy thật ra không đúng như lời ông nói. Này Già-di-ni, ông có nghe Câu-lệ-sấu có binh lính chăng?

Già-di-ni đáp:

– Tôi có nghe.

– Này Già-di-ni, ông nghĩ thế nào, Câu-lệ-sấu dùng binh lính ấy để làm gì?

Già-di-ni đáp:

– Thưa Cù-đàm, để sai giết giặc. Vì việc đó nên Câu-lệ-sấu nuôi các binh lính vậy.– Này Già-di-ni, ông nghĩ thế nào, binh lính Câu-lệ-sấu có giữ giới cấm hay không giữ giới cấm?

 Già-di-ni đáp:

– Thưa Cù-đàm, nếu trên thế gian này có những người không giữ giới cấm, vẫn không thể tệ hơn binh lính Câu-lệ-sấu. Vì sao thế? Vì binh lính Câu-lệ-sấu phạm rất nhiều cấm giới, chỉ làm các ác pháp.

Thế Tôn hỏi:

– Ông thấy như vậy, biết như vậy, Ta không hỏi ông. Nếu có người khác hỏi ông: “Vì Già-di-ni biết rằng binh lính Câu-lệ-sấu phạm rất nhiều cấm giới, chỉ làm các ác pháp; nhân việc đó nên Già-di-ni cũng phạm rất nhiều các cấm giới, chỉ làm các ác pháp.” Nếu nói như vậy là nói đúng sự thật chăng?

Già-di-ni đáp:

– Không phải vậy, thưa Cù-đàm! Vì sao thế? Vì binh lính Câu-lệ-sấu có tri kiến khác, có ý muốn khác, có sở nguyện khác nên binh lính Câu-lệ-sấu phạm rất nhiều cấm giới, chỉ làm các ác pháp. Còn tôi rất trì giới, không làm các ác pháp. 

Thế Tôn lại hỏi Già-di-ni

:– Ông biết binh lính Câu-lệ-sấu phạm rất nhiều cấm giới, chỉ làm các ác pháp, nhưng ông không do đó mà phạm cấm giới và chỉ làm các ác pháp. Vậy thì vì sao đức Như Lai lại không thể biết huyễn thuật trong khi chính mình không phải là nhà huyễn thuật? Vì sao thế? Ta biết huyễn thuật, biết người huyễn thuật, biết quả báo của huyễn thuật, biết đoạn trừ huyễn thuật.

Này Già-di-ni, Ta cũng biết sự sát sanh, biết người sát sanh, biết quả báo sát sanh, biết sự đoạn trừ sát sanh. Này Già-di-ni, Ta biết việc không cho mà lấy, biết người không cho mà lấy, biết quả báo của việc không cho mà lấy, biết sự đoạn trừ việc không cho mà lấy. Này Già-di-ni, Ta biết việc nói dối, biết người nói dối, biết quả báo nói dối, biết sự đoạn trừ nói dối. Này Già-di-ni, Ta biết như vậy, thấy như vậy. Ai nói như vầy: “Sa-môn Cù-đàm biết huyễn thuật, tức là nhà huyễn thuật”, nếu người ấy chưa đoạn trừ lời nói này, mà nghe tâm ấy, dục ấy, nguyện ấy, văn ấy, niệm ấy, quấy ấy thì trong khoảnh khắc như co duỗi cánh tay mạng chung sanh vào địa ngục.

Già-di-ni nghe vậy kinh hãi khủng khiếp, lông trên mình dựng đứng lên, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, quỳ mọp chắp tay hướng về đức Thế Tôn và bạch rằng:

– Bạch Cù-đàm, tôi ăn năn tội lỗi! Bạch Thiện Thệ, tôi vì trước như ngu si, như bất định, như bất thiện. Vì sao thế? Vì tôi nói quấy rằng Sa-môn Cù-đàm là nhà huyễn thuật. Mong Cù-đàm cho tôi được ăn năn tội lỗi! Thấy tội phát lồ, tôi đã ăn năn tội lỗi rồi, sẽ giữ gìn, không tạo lại nữa.

Đức Thế Tôn dạy:

– Thật như vậy, Già-di-ni, ông quả thật như ngu si, như bất định, như bất thiện. Vì sao thế? Vì ông đối với đức Như Lai, Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, mà nói quấy là nhà huyễn thuật. Nhưng ông có thể ăn năn tội lỗi, thấy tội nên phát lồ, hộ trì mà không tạo lại nữa. Cũng vậy, này Già-di-ni, nếu có người ăn năn tội lỗi, thấy tội nên phát lồ, hộ trì mà không tạo lại nữa thì trưởng dưỡng Thánh pháp, không còn sợ sự sai lầm nữa.

Lúc đó, Già-di-ni chắp tay hướng về đức Thế Tôn mà bạch:

– Thưa Cù-đàm, có một Sa-môn, Phạm chí thấy thế này, nói thế này: “Nếu kẻ nào sát sanh, tất kẻ ấy phải ngay trong đời này thọ báo, nó sanh ra ưu, khổ. Nếu có kẻ nào không cho mà lấy, nói dối, tất kẻ ấy phải thọ báo, nó sanh ra ưu, khổ.” Thưa Sa-môn Cù-đàm, ý Ngài nghĩ sao?

Đức Thế Tôn bảo:

– Này Già-di-ni, nay Ta hỏi ông, tùy sự hiểu biết mà trả lời. Này Già-di-ni, ông nghĩ thế nào, nếu trong thôn ấp hoặc có một người đầu đội tràng hoa, dùng nhiều loại hương xoa vào thân, rồi xướng nhạc, ca vũ, tự mình thỏa thích, vui cười với nữ sắc, hoan lạc như vua. Nếu có người hỏi rằng: “Người này trước kia làm những gì mà nay đầu đội tràng hoa, hoặc dùng nhiều loại hương xoa vào thân, rồi xướng nhạc, ca vũ, tự mình thỏa thích, vui cười với nữ sắc, hoan lạc như vua?” Hoặc có người trả lời rằng: “Người ấy vì quốc vương mà giết những kẻ thù. Quốc vương sau khi vui vẻ liền ban thưởng; do đó, người ấy đội tràng hoa, dùng nhiều loại hương xoa vào thân, rồi xướng nhạc, ca vũ, tự mình thỏa thích, vui cười với nữ sắc, hoan lạc như vua.” Này Già-di-ni, ông có thấy như vậy, nghe như vậy chăng?

Già-di-ni đáp:

– Tôi có thấy vậy, bạch Cù-đàm, tôi đã nghe và sẽ nghe!

– Này Già-di-ni, rồi lại thấy quốc vương bắt bớ tội nhân, trói quặp hai tay lại, đánh trống, xướng lệnh, kéo ra cửa thành phía Nam để ngồi dưới gốc cây nêu cao, rồi chém bêu đầu. Nếu có người hỏi rằng: “Người này mắc tội gì mà bị quốc vương giết chết?” Hoặc có người trả lời rằng: “Người này giết lầm người vô tội trong vương gia; do đó, quốc vương ra lệnh hành hình như vậy.” Này Già-di-ni, ông có thấy như vậy, nghe như vậy chăng?

Già-di-ni trả lời:

– Tôi có thấy vậy, thưa Cù-đàm, tôi đã nghe và sẽ nghe!

– Này Già-di-ni, nếu có vị Sa-môn, Phạm chí thấy như vầy, nói như vầy: “Nếu có người nào sát sanh, tất người ấy phải thọ báo ngay trong đời hiện tại này, phải sanh ra ưu, khổ” thì đó là lời nói chân thật hay lời nói hư vọng?

Già-di-ni đáp:

– Đó là lời nói hư vọng, thưa Cù-đàm!

– Nếu người ấy nói lời hư vọng, ông có tin chăng?

Già-di-ni đáp:

– Tôi không tin, thưa Cù-đàm!

Đức Thế Tôn khen:

– Hay thay, hay thay, Già-di-ni!

Ta lại hỏi Già-di-ni:

– Ông nghĩ thế nào, nếu trong thôn ấp hoặc có một người đầu đội tràng hoa, dùng nhiều thứ hương xoa vào thân, rồi xướng nhạc, ca vũ, tự mình thỏa thích, vui chơi với nữ sắc, hoan lạc như vua. Nếu có người hỏi rằng: “Người này trước kia đã làm những việc gì mà nay đầu đội tràng hoa, dùng nhiều thứ hương xoa vào thân, rồi xướng nhạc, ca vũ, tự mình thỏa thích, vui chơi với nữ sắc, hoan lạc như vua?” Hoặc có người trả lời rằng: “Người ấy ở trong nước khác, vì lấy của không cho nên người ấy đầu đội tràng hoa, dùng nhiều thứ hương xoa vào thân, rồi xướng nhạc, ca vũ, tự mình thỏa thích, vui chơi với nữ sắc, hoan lạc như vua.” Này Già-di-ni, ông có thấy như vậy, nghe như vậy chăng? 

Già-di-ni thưa:

– Tôi có thấy như vậy, thưa Cù-đàm, tôi đã nghe và sẽ nghe!

– Này Già-di-ni, rồi lại còn thấy quốc vương bắt bớ tội nhân, trói quặp hai tay ra sau, đánh trống, xướng lệnh kéo ra cửa thành phía Nam để ngồi dưới cây nêu cao, rồi chém bêu đầu. Nếu có người hỏi rằng: “Người này mắc tội gì mà bị quốc vương giết chết?” Hoặc có người trả lời rằng: “Người ấy vì lấy của không cho ở trong nước; do đó, quốc vương ra lệnh hành hình như vậy.” Này Già-di ni, ông có thấy như vậy, nghe như vậy chăng?

Già-di-ni trả lời:

– Tôi có thấy vậy, thưa Cù-đàm, tôi đã nghe và sẽ nghe!

– Này Già-di-ni, nếu có vị Sa-môn, Phạm chí thấy và nói như vầy: “Nếu có kẻ nào lấy của không cho; tất kẻ ấy phải thọ báo ngay trong đời hiện tại này, phải sanh ra ưu, khổ” thì đó là lời nói chân thật hay hư vọng?

Già-di-ni đáp:

– Đó là lời nói hư vọng, thưa Cù-đàm!

– Nếu người ấy nói lời hư vọng thì ông có tin không?

Già-di-ni đáp:

– Tôi không tin, bạch Cù-đàm!

Đức Thế Tôn khen rằng:

– Hay thay, hay thay, Già-di-ni!

Ta lại hỏi Già-di-ni:

– Ông nghĩ thế nào, nếu trong thôn ấp, hoặc có một người đầu đội tràng hoa, dùng nhiều thứ hương xoa vào thân, rồi xướng nhạc, ca vũ, tự mình thỏa thích, vui chơi với nữ sắc, hoan lạc như vua. Nếu có người hỏi rằng: “Người này trước kia đã làm những việc gì mà nay đầu đội tràng hoa, dùng nhiều thứ hương xoa vào thân, rồi xướng nhạc, ca vũ, tự mình thỏa thích, vui chơi với nữ sắc, hoan lạc như vua?” Hoặc có người trả lời rằng: “Người ấy có khả năng ca múa cười đùa, nó dùng lời dối trá làm cho quốc vương vui vẻ, sau khi quốc vương vui vẻ, liền ban thưởng cho; do đó, người ấy đầu đội tràng hoa, dùng nhiều thứ hương xoa vào thân, rồi xướng nhạc, ca vũ, tự mình thỏa thích, vui chơi với nữ sắc, hoan lạc như vua.” Này Già-di-ni, ông có thấy như vậy, nghe như vậy chăng?

Già-di-ni trả lời:

– Tôi có thấy như vậy, thưa Cù-đàm, tôi đã nghe và sẽ nghe!

– Này Già-di-ni, rồi lại còn thấy quốc vương bắt bớ tội nhân, dùng gậy đánh đến chết, rồi bỏ vào cũi cây, chở trên xe trống, đi ra cửa thành phía Bắc, vất vào trong rãnh nước. Nếu có người hỏi rằng: “Người ấy mắc tội gì mà bị quốc vương giết chết?” Hoặc có người trả lời rằng: “Người ấy trước mặt quốc vương mà nói dối mình có chứng đắc; do đó, lừa gạt quốc vương nên quốc vương ra lệnh bắt làm như thế.” Này Già-di-ni, ông có thấy như vậy, nghe như vậy không? 

Già-di-ni trả lời:

– Tôi có thấy vậy, thưa Cù-đàm, tôi đã nghe và sẽ nghe!

– Này Già-di-ni, ông nghĩ thế nào, nếu có Sa-môn, Phạm chí thấy như vầy, nói như vầy: “Nếu có người nào nói dối; tất người ấy phải thọ báo ngay trong đời hiện tại này, phải sanh ra ưu, khổ” thì đó là lời nói chân thật hay lời nói hư vọng?

Già-di-ni trả lời:

– Đó là lời nói hư vọng, thưa Cù-đàm!

– Nếu người ấy nói lời hư vọng thì ông có tin chăng?

Già-di-ni đáp:

– Tôi không tin, bạch Cù-đàm!

Đức Thế Tôn khen:

– Hay thay, hay thay, Già-di-ni!

Lúc đó, Già-di-ni liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch vai, sửa áo, chắp tay hướng về Thế Tôn rồi thưa Thế Tôn rằng:

– Thật kỳ diệu thay, Cù-đàm! Ngài nói rất vi diệu, khéo ví dụ, khéo dẫn chứng. Bạch Cù-đàm, tôi ở trong Bắc thôn, có xây dựng một ngôi nhà cao lớn, sắp đặt giường nệm, để sẵn đồ chứa nước, thắp sáng những ngọn đèn lớn. Nếu có vị Sa-môn, Phạm chí tinh tấn nào đến nghỉ ở ngôi nhà cao lớn ấy, tôi sẽ tùy khả năng mà cung cấp những điều cần thiết. Có bốn vị luận sĩ mà sở kiến, sở tri khác nhau, trái ngược nhau, cũng đến tập hợp tại ngôi nhà cao lớn ấy. Trong đó, có một vị luận sĩ thấy như vầy, nói như vầy: “Không có bố thí, không có trai tế, không có chú thuyết, không có nghiệp thiện, nghiệp ác, không có nghiệp báo thiện ác, không có đời này, đời sau, không cha, không mẹ, trên đời này không có bậc chân nhân đi đến thiện xứ, khéo đi khỏi cõi này, khéo hướng về đời này và đời sau, tự tri, tự giác, tự chứng, thành tựu và an trú.”

Vị luận sĩ thứ hai có chánh kiến trái ngược với sở kiến, sở tri của vị luận sĩ thứ nhất, vị ấy thấy như vầy, nói như vầy: “Có bố thí, có trai tế, có chú thuyết, có nghiệp thiện ác, có nghiệp báo thiện ác, có đời này, đời sau, có cha, có mẹ, trên đời này có bậc chân nhân đi đến thiện xứ, khéo đi khỏi cõi này, khéo hướng về đời này và đời sau, tự tri, tự giác, tự chứng, thành tựu và an trú.”

Vị luận sĩ thứ ba thấy như vầy, nói như vầy: “Tự mình làm và dạy người khác làm, tự mình đoạn và dạy người khác đoạn, tự mình nấu và dạy người khác nấu, rầu rĩ, bực bội, lo lắng, buồn phiền, đấm ngực, ảo não, khóc lóc, ngu si, sát sanh, không cho mà lấy, tà dâm, nói dối, uống rượu, đào vách, mở kho, đến ngõ hẻm lạ để ăn cướp, phá làng hại xóm, phá phách thành, diệt nước, làm như thế không phải là làm ác. Lại dùng vòng sắc bén như dao cạo, người ấy ở tại đất này, đối với tất cả chúng sanh, trong vòng một ngày, mà bửa, mà cắt, mà chém, mà chặt, mà lột, mà lóc, xẻo từng miếng thịt, lóc từng phần, từng khối, do vậy vẫn không có nghiệp ác, do vậy vẫn không có nghiệp báo ác. Ở bờ Nam sông Hằng giết, rồi cắt, rồi nấu, rồi bỏ đi đến bờ Bắc sông Hằng bố thí, trai tế, chú thuyết; không do đó mà có tội, có phước; không do đó mà có quả báo tội phước. Cấp thí, tự chế ngự, thủ hộ, nhiếp trì, tán thán, nhiêu ích, ái ngữ, lợi hành, không do đó mà có phước, không do đó mà có quả báo của phước.”

Luận sĩ thứ tư lại có chánh kiến, trái ngược với sở tri, sở kiến của vị luận sĩ thứ ba, vị ấy thấy thế này, nói thế này: “Tự mình làm và dạy người khác làm, tự mình đoạn và dạy người khác đoạn, tự mình nấu và dạy người khác nấu, rầu rĩ, bực bội, lo lắng, buồn bã, đấm ngực, ảo não, khóc lóc, ngu si, sát sanh, không cho mà lấy, tà dâm, nói dối, uống rượu, đào vách, mở kho, đến ngõ hẻm lạ để ăn cướp, phá làng hại xóm, phá phách thành, diệt nước, làm như vậy chính là làm ác. Lại dùng vòng sắt bén như dao cạo, người ấy ở tại đất này, đối với tất cả chúng sanh trong vòng một ngày, mà bửa, mà cắt, mà chém, mà chặt, mà lột, mà lóc, xẻo từng miếng thịt, lách từng phần, từng khối, do vậy mà có nghiệp ác, do vậy mà có nghiệp báo ác. Ở bờ Nam sông Hằng giết, cắt, nấu, bỏ đi đến bờ Bắc sông Hằng bố thí, trai tế, chú thuyết; do đó mà có tội phước; do đó mà có quả báo tội phước. Cấp thí, tự chế ngự, thủ hộ, nhiếp trì, tán thán, nhiêu ích, ái ngữ lợi hành; do đó mà có phước, do đó mà có quả báo của phước.”

Thưa Cù-đàm, tôi nghe như vậy, liền sanh nghi hoặc: “Những vị Sa-môn, Phạm chí đó, ai nói chân thật, ai nói hư vọng?”

Đức Thế Tôn dạy:

– Này Già-di-ni, ông đừng sanh ra nghi hoặc, vì sao thế? Vì do có nghi hoặc mà sanh ra do dự. Này Già-di-ni, ông tự mình không có tịnh trí để hiểu biết là có đời sau hay không có đời sau. Này Già-di-ni, ông lại không có tịnh trí để biết sự tạo tác ấy là ác hay là sự tạo tác ấy là thiện. Này Già-di-ni, có một phép định được gọi là viễn ly. Ông nhờ định ấy sẽ có thể được chánh niệm, có thể đạt tới nhất tâm; như vậy, ở trong đời hiện tại, ông sẽ đoạn trừ sự nghi hoặc, rồi được thăng tấn.

Lúc đó, Già-di-ni từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch vai, sửa áo, chắp tay hướng về đức Thế Tôn mà bạch rằng:

– Thưa Cù-đàm, thế nào là phép định tên viễn ly, khiến cho tôi do đó mà có thể được chánh niệm, có thể đạt tới nhất tâm, và như vậy, trong đời hiện tại, tôi sẽ đoạn được sự nghi hoặc rồi được thăng tiến?

Đức Thế Tôn bảo:

– Đa văn Thánh đệ tử ly sát, đoạn sát, đoạn sự không cho mà lấy, tà dâm, nói dối, cho đến đoạn tà kiến và được chánh kiến. Vị ấy ban ngày làm ruộng, cày bừa và gieo giống, đến chiều nghỉ ngơi vào nhà ngồi thiền định, qua đêm ấy, sáng hôm sau nghĩ thế này: “Ta ly sát, đoạn sát, đoạn sự không cho mà lấy, nói dối, cho đến đoạn tà kiến nên được chánh kiến.” Vị ấy liền tự thấy: “Ta đã đoạn mười nghiệp đạo ác, niệm mười nghiệp đạo thiện.” Vị ấy, sau khi tự thấy đoạn mười nghiệp đạo ác và niệm mười nghiệp đạo thiện rồi, liền sanh ra hân hoan; sau khi sanh ra hân hoan, liền phát sanh hỷ; sau khi phát sanh hỷ, thân an định; sau khi thân được an định, thân liền cảm thọ lạc; sau khi thân cảm thọ lạc thì được nhất tâm. Này Già-di-ni, sau khi đa văn Thánh đệ tử được nhất tâm rồi thì tâm tương ưng với từ, biến khắp một phương, thành tựu và an trú; cũng thế, hai, ba, bốn phương, tứ duy, thượng hạ, biến khắp tất cả. Tâm tương ưng với từ, không kết, không oán, không sân, không nhuế, không não hại, quảng đại, vô biên, vô lượng, khéo tu tập, biến mãn tất cả thế gian, thành tựu và an trú.

Vị ấy nghĩ như thế này: “Nếu có Sa-môn, Phạm chí nào thấy như vầy, nói như vầy: ‘Không có sự bố thí, không có trai tế, không có sự chú thuyết, không có nghiệp thiện ác, không có nghiệp báo thiện ác, không có đời này, đời sau, không có cha, không có mẹ, trên đời này không có bậc chân nhân đi đến thiện xứ, khéo đi khỏi cõi này, khéo hướng về đời này và đời sau, tự tri, tự giác, tự chứng, thành tựu và an trú’; nếu điều vị Sa-môn, Phạm chí kia nói ra là chân thật thì ta cũng không xúc phạm đời, không phải vì sợ hãi hay không sợ hãi mà vì thương mến tất cả thế gian, tâm ta không cùng tranh chấp với thế gian, cũng không ô trược, được hân hoan. Nay ta được pháp của bậc Vô thượng, thăng tấn, trụ trong sự an lạc; đó là phép định viễn ly. Những gì vị Sa-môn, Phạm chí kia nói, [ta] không cho là đúng, không cho là sai; sau khi không cho là đúng, không cho là sai, liền được nội tâm tĩnh chỉ.”

Này Già-di-ni, đó là phép định được gọi là viễn ly, ông có thể nhân định này mà được chánh niệm, mà được nhất tâm. Như vậy, ông có thể đoạn hết nghi hoặc ở trong đời này mà được thăng tiến.

Lại nữa, này Già-di-ni, đa văn Thánh đệ tử ly sát, đoạn sát, đoạn sự không cho mà lấy, nói dối, tà dâm, cho đến đoạn tà kiến và được chánh kiến. Vị ấy ban ngày làm ruộng, cày bừa và gieo giống, đến chiều nghỉ ngơi vào nhà ngồi thiền định, qua đêm ấy, sáng hôm sau nghĩ như thế này: “Ta ly sát, đoạn sát, đoạn sự không cho mà lấy, nói dối, cho đến đoạn tà kiến, được chánh kiến.” Vị ấy liền tự thấy: “Ta đã đoạn mười nghiệp đạo ác, niệm mười nghiệp đạo thiện.” Vị ấy, sau khi tự thấy đoạn mười nghiệp đạo ác và niệm mười nghiệp đạo thiện rồi, liền sanh ra hân hoan; sau khi sanh ra hân hoan, liền phát sanh hỷ; sau khi phát sanh hỷ, thân an định; sau khi thân được an định, thân liền cảm thọ lạc; sau khi cảm thọ lạc thì được nhất tâm. Này Già-di-ni, sau khi đa văn Thánh đệ tử được nhất tâm rồi thì tâm tương ưng với bi, biến khắp một phương, thành tựu và an trú; cũng thế, hai, ba, bốn phương, tứ duy, thượng hạ, biến khắp tất cả. Tâm tương ưng với bi, không kết, không oán, không sân nhuế, không não hại, quảng đại, vô biên, vô lượng, khéo tu tập, biến mãn tất cả thế gian, thành tựu và an trú.

Vị ấy liền nghĩ như thế này: “Nếu có Sa-môn, Phạm chí thấy như vầy, nói như vầy: ‘Có bố thí, có trai tế, có chú thuyết, có nghiệp thiện ác, có nghiệp báo thiện ác, có đời này, đời sau, có cha, có mẹ, trên đời này có bậc chân nhân đi đến thiện xứ, khéo vượt qua, khéo hướng đến đời này và đời sau, tự tri, tự giác, tự chứng, thành tựu và an trú’; nếu điều mà vị Sa-môn, Phạm chí ấy nói là chân thật thì ta cũng không xúc phạm đời, không phải vì sợ hãi hay không sợ hãi mà vì thương mến tất cả thế gian, tâm ta không tranh chấp cùng với thế gian, cũng không ô trược, được hân hoan. Nay ta được pháp của bậc Vô thượng, thăng tiến, trụ trong sự an lạc; đó là phép định viễn ly. Những gì vị Sa-môn, Phạm chí kia nói, [ta] không cho là đúng, không cho là sai; sau khi không cho là đúng, không cho là sai, liền được nội tâm tĩnh chỉ.”

Này Già-di-ni, đó là phép định được gọi là viễn ly. Ông có thể nhân định này mà được chánh niệm, được nhất tâm. Như vậy, ông có thể đoạn hết nghi hoặc ở trong đời này và được thăng tiến.

Lại nữa, Già-di-ni, đa văn Thánh đệ tử ly sát, đoạn sát, đoạn sự không cho mà lấy, tà dâm, nói dối, cho đến đoạn tà kiến và được chánh kiến. Vị ấy, ban ngày làm ruộng, cày bừa và gieo giống, đến chiều nghỉ ngơi vào nhà ngồi thiền định, qua đêm ấy, sáng hôm sau nghĩ thế này: “Ta ly sát, đoạn sát, đoạn sự không cho mà lấy, nói dối, cho đến đoạn tà kiến được chánh kiến.” Vị ấy liền tự thấy: “Ta đã đoạn mười nghiệp đạo ác, niệm mười nghiệp đạo thiện.” Vị ấy, sau khi tự thấy mười nghiệp đạo ác và niệm mười nghiệp đạo thiện rồi, liền sanh ra hân hoan; sau khi sanh ra hân hoan, liền phát sanh hỷ; sau khi phát sanh hỷ, thân an định; sau khi thân được an định, thân liền cảm thọ lạc; sau khi thân cảm thọ lạc thì liền được nhất tâm. Này Già-di-ni, sau khi đa văn Thánh đệ tử được nhất tâm rồi, tâm tương ưng với hỷ, biến khắp một phương, thành tựu và an trú; cũng thế, hai, ba, bốn phương, tứ duy, thượng hạ, biến khắp tất cả. Tâm tương ưng với hỷ, không kết, không oán, không sân nhuế, không não hại, quảng đại, vô biên, vô lượng, khéo tu tập, biến mãn tất cả thế gian, thành tựu và an trú.

Vị ấy nghĩ thế này: “Nếu có Sa-môn, Phạm chí thấy như vầy, nói như vầy: ‘Tự mình làm và dạy người khác làm, tự mình đoạn và dạy người khác đoạn, tự mình nấu và dạy người khác nấu, rầu rĩ, bực bội, lo lắng, buồn bã, đấm ngực, ảo não, khóc lóc, ngu si, sát sanh, không cho mà lấy, tà dâm, nói dối, uống rượu, đào vách, mở kho, đến ngõ hẻm lạ để ăn cướp, phá làng hại xóm, phá thành, diệt nước, làm như vậy chính là làm ác. Lại dùng vòng sắt bén như dao cạo, người ấy ở tại đất này, đối với tất cả chúng sanh trong vòng một ngày mà bửa, mà cắt, mà chém, mà chặt, mà lột, mà lóc, xẻo từng miếng thịt, lóc từng phần, từng khối; do vậy mà có nghiệp ác; do vậy mà có nghiệp báo ác. Ở bờ Nam sông Hằng giết, rồi cắt, rồi nấu, rồi bỏ đi đến bờ Bắc sông Hằng bố thí, trai tế, chú thuyết; do đó mà có tội, do đó mà có phước; có quả báo tội phước. Cấp thí, tự chế ngự, thủ hộ, nhiếp trì, tán thán, nhiêu ích, huệ thí, ái ngữ, lợi hành; không do đó mà có phước; không do đó mà có quả báo của phước.’ Nếu điều mà vị Sa-môn, Phạm chí ấy nói là đúng, chân thật thì ta cũng không xúc phạm đời, không phải vì sợ hãi hay không sợ hãi mà vì thương mến tất cả thế gian, tâm ta không cùng tranh chấp với thế gian, cũng không ô trược, được hân hoan. Nay ta được pháp của bậc Vô thượng, thăng tiến, trụ trong sự an lạc; đó là phép định viễn ly. Những gì vị Sa-môn, Phạm chí kia nói, [ta] không cho là đúng, không cho là sai; sau khi không cho là đúng, không cho là sai, liền được nội tâm tĩnh chỉ.”

Này Già-di-ni, đó là phép định được gọi là viễn ly. Ông có thể nhân định này mà được chánh niệm, được nhất tâm. Như vậy, ông có thể đoạn hết nghi hoặc ở trong đời này và được thăng tiến.

Lại nữa, này Già-di-ni, đa văn Thánh đệ tử ly sát, đoạn sát, đoạn sự không cho mà lấy, tà dâm, nói dối, cho đến đoạn tà kiến và được chánh kiến. Vị ấy ban ngày làm ruộng, cày bừa và gieo giống, đến chiều nghỉ ngơi vào nhà ngồi thiền định, qua đêm ấy, sáng hôm sau nghĩ thế này: “Ta ly sát, đoạn sát, đoạn sự không cho mà lấy, nói dối, cho đến đoạn tà kiến được chánh kiến.” Vị ấy liền tự thấy: “Ta đã đoạn mười nghiệp đạo ác và niệm mười nghiệp đạo thiện rồi, liền sanh hân hoan; sau khi sanh ra hân hoan, liền phát sanh hỷ; sau khi phát sanh hỷ, thân an định; sau khi thân được an định, thân liền cảm thọ lạc; sau khi cảm thọ lạc thì được nhất tâm. Này Già-di-ni, sau khi đa văn Thánh đệ tử được nhất tâm rồi, tâm tương ưng với xả, biến khắp một phương, thành tựu và an trú; cũng thế, hai, ba, bốn phương, tứ duy, thượng hạ, biến khắp tất cả. Tâm tương ưng với xả, không kết, không oán, không sân nhuế, không não hại, quảng đại, vô biên, vô lượng, khéo tu tập, biến mãn tất cả thế gian, thành tựu và an trú.”

Vị ấy nghĩ như thế này: “Nếu có Sa-môn, Phạm chí thấy như vầy, nói như vầy: ‘Tự mình làm và dạy người khác làm, tự mình đoạn và dạy người khác đoạn, tự mình nấu và dạy người khác nấu, rầu rĩ, bực bội, lo lắng, buồn bã, đấm ngực, ảo não, khóc lóc, ngu si, sát sanh, không cho mà lấy, tà dâm, nói dối, uống rượu, đào vách, mở kho, đến ngõ hẻm lạ để ăn cướp, phá làng hại xóm, phá thành, diệt nước, làm như thế không phải là làm ác. Lại dùng vòng sắt bén như dao cạo, người ấy ở tại đất này, đối với tất cả chúng sanh trong vòng một ngày, mà bửa, mà cắt, mà chém, mà chặt, mà lột, mà lóc, xẻo từng miếng thịt, lóc từng phần, từng khối, do vậy vẫn không có nghiệp ác, do vậy vẫn không có nghiệp báo ác. Ở bờ Nam sông Hằng giết, rồi cắt, rồi nấu, rồi bỏ đi đến bờ Bắc sông Hằng bố thí, trai tế, chú thuyết; không do đó mà có tội, có phước; không do đó mà có quả báo tội phước. Cấp thí, tự chế ngự, thủ hộ, nhiếp trì, tán thán, nhiêu ích, huệ thí, ái ngữ, lợi hành; do đó mà có phước; do đó mà có quả báo của phước’; nếu điều mà vị Sa-môn, Phạm chí ấy nói là chân thật thì ta cũng không xúc phạm đời, không phải vì sợ hãi hay không sợ hãi mà vì thương mến tất cả thế gian, tâm ta không cùng tranh chấp với thế gian, cũng không ô trược, được hân hoan. Nay ta được pháp của bậc Vô thượng, thăng tiến, trụ trong sự an lạc, đó là phép định viễn ly. Những gì vị Sa-môn, Phạm chí kia nói, [ta] không cho là đúng, không cho là sai; sau khi không cho là đúng, không cho là sai, liền được nội tâm tĩnh chỉ.”

 Này Già-di-ni, đó là phép định được gọi là viễn ly. Ông có thể nhân định này mà được chánh niệm, được nhất tâm. Như vậy, ông có thể đoạn hết nghi hoặc ở trong đời này và được thăng tiến.

Khi bài pháp ấy được giảng xong, Già-di-ni xa lìa trần cấu, phát sanh pháp nhãn thanh tịnh về các pháp. Lúc đó, Già-di-ni thấy pháp, chứng pháp, giác ngộ pháp bạch tịnh, đoạn nghi, trừ hoặc, không còn tôn sùng ai khác, không còn theo ai khác, không còn do dự, đã trụ nơi quả chứng, đạt được vô sở úy đối với giáo pháp của đức Thế Tôn, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, cúi đầu lễ dưới chân Phật mà bạch rằng:

– Bạch đức Thế Tôn, con từ nay xin quy y Phật, Pháp và chúng Tỳ-kheo! Cúi mong đức Thế Tôn nhận con làm ưu-bà-tắc, bắt đầu từ hôm nay, trọn đời nguyện đem mình quy y cho đến lúc mạng chung!

Đức Phật thuyết như vậy, Ba-la-lao Già-di-ni và các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật dạy xong, hoan hỷ phụng hành. 

 

 

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.