Viện Nghiên Cứu Phật Học

Tam tạng Thánh điển PGVN 18 » Tam tạng Phật giáo Bộ phái 02 » 

Kinh Trung A-Hàm
(中阿含經)

Dịch tiếng Việt: VIỆN CAO ĐẲNG PHẬT HỌC HẢI ĐỨC - NHA TRANG
Hiệu đính: Hòa Thượng THÍCH THIỆN SIÊU

Mục Lục

19. KINH NI-KIỀN
 

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật du hóa tại Thích-ki-sấu, trong Thiên Ấp.

Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo rằng:

– Các vị Ni-kiền thấy như vầy, nói như vầy: “Những gì mà con người cảm thọ đều do nhân đã tạo tác từ trước. Nếu những nghiệp cũ của chúng do nhân khổ hạnh diệt mà không tạo nghiệp mới nữa thì ác nghiệp ấy sẽ chấm dứt. Các nghiệp đã chấm dứt thì các khổ sẽ chấm dứt. Các khổ đã được chấm dứt thì đạt đến khổ biên tế.”

Ta liền đến nơi các vị ấy, đến rồi liền hỏi:

– Này Ni-kiền, phải chăng quả thật các vị thấy như vầy, nói như vầy: “Những gì mà con người cảm thọ đều do nhân đã tạo tác từ trước. Nếu những nghiệp cũ của họ do nhân khổ hạnh diệt mà không tạo nghiệp mới nữa thì các nghiệp ấy sẽ chấm dứt. Các nghiệp đã chấm dứt thì các khổ sẽ chấm dứt. Các khổ đã được chấm dứt thì đã đạt đến khổ biên tế?”

Họ trả lời:

– Đúng vậy, thưa Cù-đàm!

Ta lại hỏi các vị Ni-kiền kia:

– Các vị tự cho là có tịnh trí, vậy có biết rằng: “Trước kia ta có hay không có? Trước kia ta tạo tác ác hay không tạo tác ác? Ta bị chừng ấy khổ là hết hay bị chừng ấy khổ vẫn chưa hết? Nếu hết rồi thì sẽ được hết vĩnh viễn hay không? Chính ngay trong đời này mà đoạn các pháp bất thiện và tạo được các thiện pháp, tu tập và tác chứng?”

Họ trả lời Ta:

– Không, thưa Cù-đàm!

Ta lại bảo các Ni-kiền kia:

– Các vị tự không có tịnh trí để biết rằng: “Trước kia ta có hay không có? Trước kia ta tạo tác ác hay không tạo tác ác? Ta bị chừng ấy khổ là hết hay bị chừng ấy khổ vẫn chưa hết? Nếu hết rồi thì sẽ được hết vĩnh viễn? Chính ngay trong đời này đoạn các pháp bất thiện và tạo được các thiện pháp, tu tập và tác chứng?” Và các ông lại nói rằng: “Những gì mà con người cảm thọ đều do nhân đã tạo tác từ trước. Nếu những nghiệp cũ của họ do nhân khổ hạnh diệt và không tạo nghiệp mới nữa thì các nghiệp ấy sẽ chấm dứt. Các nghiệp đã chấm dứt thì các khổ sẽ được chấm dứt. Các khổ đã được chấm dứt thì đạt đến khổ biên tế.” Này Ni-kiền, nếu các ông tự cho là có tịnh trí để hiểu biết rằng: “Trước kia ta có hay không có? Trước kia ta tạo tác ác hay không tạo tác ác? Ta bị chừng ấy khổ là hết hay bị chừng ấy khổ vẫn chưa hết? Nếu hết rồi thì sẽ được vĩnh viễn hay không?” Và nếu ngay trong đời này mà đoạn các pháp bất thiện và tạo được các thiện pháp, tu tập và tác chứng, thì này Ni-kiền, các ông mới có thể nói như vầy: “Những gì mà con người cảm thọ đều do nhân đã tạo tác từ trước. Nếu những nghiệp cũ đó do nhân khổ hạnh diệt và không tạo nghiệp mới nữa thì các nghiệp ấy sẽ chấm dứt. Các nghiệp đã chấm dứt thì các khổ sẽ được chấm dứt. Các khổ đã được chấm dứt thì đạt đến khổ biên tế.”

Này Ni-kiền, cũng như có người thân thể trúng tên độc, vì trúng tên độc nên rất đau đớn, người ấy được quyến thuộc yêu mến xót thương, muốn đem lại sự thiện ích, an ổn nên lập tức mời vị y sư nhổ tên đến. Vị y sư nhổ tên đến liền lấy dao bén để giải phẫu vết thương, do sự giải phẫu vết thương nên người ấy lại rất đau đớn. Sau khi y sư giải phẫu vết thương liền tìm mũi tên vàng, khi y sư tìm mũi tên vàng người ấy lại càng rất đau đớn. Tìm được mũi tên vàng rồi y sư lập tức nhổ ra, lúc nhổ ra người ấy lại càng đau đớn thêm. Nhổ mũi tên vàng ra rồi y sư đậy vết thương lại và băng bó, vì y sư băng bó vết thương nên bấy giờ người ấy lại đau đớn hơn. Sau khi được nhổ mũi tên vàng ra, người ấy được khỏe mạnh, không bệnh hoạn, các căn không hư hoại, bình phục như cũ. Này Ni-kiền, người ấy có sẵn khôn ngoan nên liền suy nghĩ như vầy: “Ta trước kia bị trúng tên độc, vì bị trúng tên độc nên rất đau đớn, các quyến thuộc của ta thấy vậy, yêu mến xót thương, muốn đem lại lợi ích và an lạc cho ta nên liền mời y sư nhổ tên vàng. Vị y sư nhổ tên vàng đến liền lấy mũi dao bén mổ vết thương cho ta, vì mổ vết thương nên lúc ấy ta rất đau đớn. Khi mổ vết thương rồi y sư liền tìm mũi tên vàng, khi y sư tìm mũi tên vàng ta lại thêm rất đau đớn. Tìm được mũi tên vàng rồi y sư liền nhổ ra, vì y sư nhổ ra nên lúc ấy ta lại đau đớn hơn. Khi nhổ mũi tên vàng ra rồi y sư đậy vết thương lại và băng bó, vì băng bó nên lúc ấy ta lại rất đau đớn hơn. Ta, sau khi được nhổ mũi tên vàng ra rồi, được khỏe mạnh, không bệnh hoạn, các căn không hư hoại, trở lại bình thường như cũ.”

Cũng vậy, này Ni-kiền, nếu các vị tự có tịnh trí, biết rằng: “Trước kia ta có hay không có? Trước kia ta tạo tác ác hay không tạo tác ác? Ta bị chừng ấy khổ là hết hay bị chừng ấy khổ vẫn chưa hết và nếu hết rồi thì sẽ được hết vĩnh viễn hay không?” Và nếu ngay trong đời này mà đoạn các pháp bất thiện và tạo được các thiện pháp, tu tập và tác chứng, thì này Ni-kiền, các vị mới có thể nói thế này: “Những gì mà con người cảm thọ đều do nhân đã tạo tác từ trước. Nếu những nghiệp cũ đó do nhân khổ hạnh diệt mà không tạo nghiệp mới nữa thì các nghiệp ấy sẽ chấm dứt. Các nghiệp đã chấm dứt thì các khổ sẽ được chấm dứt. Các khổ đã được chấm dứt thì đạt đến khổ biên tế.” 

Ta hỏi như vậy mà không thấy các Ni-kiền nào có thể trả lời Ta rằng: “Thưa Cù-đàm, đúng như vậy hay không đúng như vậy.”

Lại nữa, Ta hỏi các Ni-kiền rằng:

– Nếu các vị Ni-kiền có sự tinh cần bậc thượng, có sự khổ hạnh bậc thượng; bấy giờ, các Ni-kiền có sanh khởi sự khổ bậc thượng chăng?

Họ trả lời:

– Đúng như vậy, thưa Cù-đàm!

– Nếu các ông có sự tinh cần bậc trung, có sự khổ hạnh bậc trung; bấy giờ, các vị Ni-kiền có sanh khởi sự khổ bậc trung chăng?

Họ trả lời:

– Đúng như vậy, thưa Cù-đàm!

– Nếu các ông có sự tinh cần bậc hạ, có sự khổ hạnh bậc hạ; bấy giờ, các ông có sự sanh khởi sự khổ bậc hạ chăng?

Họ trả lời:

– Đúng như vậy, thưa Cù-đàm!

Đó là các Ni-kiền có sự tinh cần bậc thượng và khổ hạnh bậc thượng, bấy giờ các Ni-kiền sanh khởi sự khổ bậc thượng; có sự tinh cần bậc trung và khổ hạnh bậc trung, bấy giờ các Ni-kiền ấy sanh khởi sự khổ bậc trung; có sự tinh cần bậc hạ và khổ hạnh bậc hạ, bấy giờ các Ni-kiền ấy sanh khởi sự khổ bậc hạ. Nếu cho rằng các vị Ni-kiền có sự tinh cần bậc thượng và khổ hạnh bậc thượng, bấy giờ các vị Ni-kiền ấy chấm dứt các nỗi khổ bậc thượng; có sự tinh cần bậc trung và khổ hạnh bậc trung, bấy giờ các vị Ni-kiền ấy chấm dứt các nỗi khổ bậc trung; có sự tinh cần bậc hạ và khổ hạnh bậc hạ, bấy giờ các Ni kiền ấy chấm dứt nỗi khổ bậc hạ; nếu làm như vậy hay không làm như vậy mà chấm dứt được những nỗi khổ cùng cực và các nỗi khổ rất nặng nề, nên biết, các Ni-kiền ngay trong đời này mà gây ra nỗi khổ. Nhưng các Ni-kiền bị sự mê che lấp, bị sự mê trói buộc nên nói thế này: “Những gì mà con người cảm thọ đều do nhân đã tạo tác từ trước. Nếu những nghiệp cũ đó do nhân khổ hạnh diệt mà không tạo nghiệp mới nữa thì các nghiệp ấy sẽ chấm dứt. Các nghiệp đã chấm dứt thì các khổ sẽ được chấm dứt. Các khổ đã được chấm dứt thì đã đạt đến khổ biên tế.”

Ta hỏi như vậy, nhưng không thấy các Ni-kiền ấy chịu trả lời cho Ta rằng: “Thưa Cù-đàm, đúng như vậy hay không đúng như vậy.”

Lại nữa, Ta hỏi các Ni-kiền:

– Các vị Ni-kiền, nếu có nghiệp mang lại lạc báo thì nghiệp ấy có thể nào nhân sự tinh cần và nhân sự khổ hạnh mà chuyển thành khổ báo chăng?

Họ trả lời Ta rằng:

– Không thể có, thưa Cù-đàm! 

– Này các Ni-kiền, nếu có nghiệp mang lại khổ báo thì nghiệp ấy có thể nào nhân sự tinh cần và nhân sự khổ hạnh mà chuyển thành lạc báo chăng?

Họ trả lời:

– Không thể có, thưa Cù-đàm!

– Các vị Ni-kiền, nếu có nghiệp báo trong đời hiện tại thì nghiệp ấy có thể nào nhân sự tinh cần và nhân sự khổ hạnh mà chuyển thành quả báo đời sau chăng?

Họ trả lời:

– Không thể có, thưa Cù-đàm!

– Này các Ni-kiền, nếu có nghiệp báo đời sau thì nghiệp ấy có thể nào nhân sự tinh cần và nhân sự khổ hạnh mà chuyển thành quả báo đời hiện tại chăng?

Họ trả lời:

– Không thể có, thưa Cù-đàm!

– Các Ni-kiền, nếu có nghiệp báo không chín muồi thì nghiệp ấy có thể nào nhân sự tinh cần và nhân sự khổ hạnh mà chuyển thành quả báo chín muồi chăng?

Họ trả lời:

– Không thể có, thưa Cù-đàm!

– Này các Ni-kiền, nếu có nghiệp báo chín muồi ngay thì nghiệp ấy có thể nào nhân sự tinh cần và nhân sự khổ hạnh mà chuyển đổi cho khác đi chăng?

Họ trả lời:

– Không thể có, thưa Cù-đàm!

– Các Ni-kiền, đó là lạc nghiệp báo, nghiệp ấy không thể nhân sự tinh cần và nhân sự khổ hạnh mà chuyển thành khổ báo được. Này các Ni-kiền, khổ báo nghiệp, nghiệp ấy không thể nhân sự tinh cần hay nhân sự khổ hạnh mà chuyển thành lạc báo được. Các Ni-kiền, hiện báo nghiệp, nghiệp ấy không thể nhân sự tinh cần và nhân sự khổ hạnh mà chuyển thành hậu báo được. Các Ni-kiền, sanh báo nghiệp, nghiệp ấy không thể nhân sự tinh cần và nhân sự khổ hạnh mà chuyển thành hiện báo được. Các Ni-kiền, nghiệp không chín muồi, nghiệp ấy không thể nhân sự tinh cần và nhân sự khổ hạnh mà chuyển thành quả báo chín muồi. Các Ni-kiền, nghiệp báo chín muồi, nghiệp ấy không thể nào nhân sự tinh cần và nhân sự khổ hạnh mà chuyển đổi thành khác đi được. Vì thế, này các Ni-kiền, sự nỗ lực của các ông là hư vọng, sự tinh cần ấy là trống rỗng, chẳng đạt được gì cả.

Các vị Ni-kiền ấy liền trả lời Ta rằng:

– Thưa Cù-đàm, chúng tôi có Tôn sư tên là Thân-tử-ni-kiền, có nói thế này: “Các Ni-kiền, nếu các ông trước kia đã tạo tác ác nghiệp, nghiệp ấy đều có thể nhân sự khổ hạnh này mà bị diệt tận tất cả. Nếu nay hộ trì thân, khẩu, ý, nhân đó nên không còn tạo ác nghiệp nữa.”

 Ta lại hỏi các vị Ni-kiền ấy:

– Các vị tin vào Tôn sư Thân-tử-ni-kiền mà không chút nghi hoặc sao? Họ trả lời:

– Thưa Cù-đàm, chúng tôi tin vào Tôn sư Thân-tử-ni-kiền không hề có nghi hoặc.

Ta lại hỏi các Ni-kiền ấy:

– Có năm loại pháp quả báo trong đời này đem đến: tín, nhạo, văn, niệm, hiền thiện quán. Các Ni-kiền, có người sẵn có bản tánh hư vọng, nói rằng điều này đáng tin, đáng ưa mến, đáng nghe theo, đáng suy gẫm, đáng chiêm nghiệm kỹ chăng?

Họ trả lời Ta rằng:

– Đúng như vậy, thưa Cù-đàm!

Ta lại bảo các Ni-kiền:

– Đó là lời dối trá, sao đáng tin, sao đáng ưa muốn, sao đáng nghe theo, sao đáng suy gẫm, sao đáng chiêm nghiệm? Trong khi người ấy có sẵn bản tánh dối trá mà nói rằng: “Có tín, nhạo, văn, niệm, hiền thiện quán.” Nếu các Ni-kiền nói như thế thì đối với như pháp có năm điều đáng khiển trách, chất vấn, đáng ghê tởm. Những gì là năm? Nay, những chúng sanh này thọ lãnh sự khổ hay vui đều do sự tạo tác của chính họ trước kia, nếu đúng vậy thì các vị Ni-kiền vốn trước kia đã tạo các nghiệp ác. Vì sao thế? Bởi nhân đó nên nay các Ni-kiền phải thọ khổ cực trọng đại. Đó là điều đáng ghê tởm thứ nhất của các Ni-kiền.

Lại nữa, chúng sanh lãnh thọ sự khổ vui đều do sự tập hợp, nếu đúng vậy thì các ông vốn tập hợp các điều ác. Vì sao thế? Bởi vì thế nên nay các Ni-kiền phải thọ khổ cực trọng đại. Đó là điều đáng ghê tởm thứ hai của các Ni-kiền.

Lại nữa, chúng sanh lãnh thọ sự khổ vui đều do định mạng, nếu đúng vậy thì các Ni-kiền vốn có định mạng ác. Vì sao thế? Bởi nhân đó cho nên nay các Ni-kiền phải thọ lãnh khổ cực trọng đại. Đó là điều đáng ghê tởm thứ ba của các Ni-kiền.

Lại nữa, chúng sanh lãnh thọ sự khổ vui đều do kiến, nếu đúng vậy thì các Ni-kiền kia vốn có ác kiến. Vì sao thế? Bởi nhân đó nên nay các Ni-kiền phải thọ khổ cực trọng đại. Đó là điều đáng ghê tởm thứ tư của các Ni-kiền.

Lại nữa, chúng sanh lãnh thọ sự khổ vui đều do Tôn Hựu tạo, nếu đúng vậy thì các Ni-kiền vốn có một Tôn Hựu hung ác. Vì sao thế? Bởi nhân đó nên nay các Ni-kiền phải thọ khổ trọng đại. Đó là điều đáng ghê tởm thứ năm của các Ni-kiền.

Nếu các Ni-kiền vốn do tạo tác ác nghiệp, ác tập hợp, ác định mạng, ác kiến, ác Tôn hựu, được sáng tạo bởi một ác Tôn hựu, nhân đó mà các Ni-kiền nay phải lãnh thọ khổ cực trọng đại. Đó là nhân những việc ấy nên các Ni-kiền là những người đáng ghê tởm. 

Pháp mà Ta tự tri, tự giác và nói cho các ông, dù là Sa-môn, Phạm chí hoặc Thiên, Ma, Phạm và những kẻ khác trên thế gian đều không thể hàng phục được, đều không thể làm cho ô uế được, đều không thể chế ngự được.

Thế nào là pháp mà Ta tự tri, tự giác và nói cho các vị mà chẳng thể bị Sa môn, Phạm chí, hoặc Thiên, Ma, Phạm và những người khác trong thế gian có thể khuất phục được, có thể làm cho ô uế được, có thể chế ngự được? Nếu có Tỳ-kheo xả bỏ thân nghiệp bất thiện để tu thiện nghiệp nơi thân; xả bỏ khẩu, ý nghiệp bất thiện để tu thiện nghiệp nơi khẩu, ý. Vị đó đối với sự khổ đời vị lai liền tự biết: “Ta không có khổ đời vị lai”, được sự an lạc như pháp nên không xả bỏ. Vị ấy hoặc muốn nỗ lực đoạn trừ đối với nguyên nhân của khổ do tập thành bằng dục, hoặc muốn nỗ lực đoạn trừ đối với nguyên nhân của khổ do sự tập thành bằng xả dục. Vị ấy nếu muốn nỗ lực đoạn trừ đối với nguyên nhân của khổ do tập hành bằng dục, vị ấy tu tập sự tập hành bởi dục ấy và sau khi nỗ lực đã thành tựu, sự khổ liền chấm dứt. Vị ấy nếu muốn nỗ lực đoạn trừ đối với nguyên nhân của khổ do sự tập hành bởi xả dục, tức tu tập sự tập hành bởi xả dục ấy và sau khi nỗ lực đã thành tựu, sự khổ liền chấm dứt.

Bấy giờ, nếu Tỳ-kheo ấy suy nghĩ như thế này: “Tùy theo sự tạo tác, tùy theo sự thực hành mà pháp bất thiện sanh khởi, còn thiện pháp bị tiêu diệt. Nếu tự tinh cần khổ hạnh mà pháp bất thiện bị tiêu diệt, thiện pháp sanh khởi thì ta hãy tự tinh cần khổ hạnh.” Rồi vị ấy tự tinh cần khổ hạnh. Sau khi đã tinh cần khổ hạnh, pháp bất thiện bị tiêu diệt, thiện pháp sanh khởi; bấy giờ vị ấy không còn tinh cần khổ hạnh nữa.

Vì sao thế? Này các Tỳ-kheo, những gì cần phải làm trước đó, nay mục đích đã thành tựu, nếu còn tinh cần khổ hạnh thì việc ấy không đúng.

Này các Tỳ-kheo, cũng như anh thợ làm tên dùng kềm để uốn tên, khi cây tên đã thẳng thì không còn dùng kềm nữa. Vì sao thế? Vì việc phải làm trước đó nay đã làm xong rồi, nếu còn dùng kềm nữa thì việc ấy không đúng.

Cũng vậy, một Tỳ-kheo suy nghĩ thế này: “Tùy theo sự tạo tác và tùy theo sự thực hành mà pháp bất thiện sanh khởi, thiện pháp bị tiêu diệt. Nếu tự tinh cần khổ hạnh mà pháp bất thiện bị tiêu diệt, thiện pháp sanh khởi thì ta hãy tự tinh cần khổ hạnh ấy.” Rồi vị ấy tự tinh cần khổ hạnh. Sau khi đã tinh cần khổ hạnh, pháp bất thiện bị tiêu diệt, thiện pháp sanh khởi; bấy giờ vị ấy không còn tinh cần khổ hạnh nữa. Vì sao thế? Này các Tỳ-kheo, những gì cần phải làm trước đó, nay mục đích đã thành tựu, nếu còn tinh cần khổ hạnh thì việc ấy không đúng.

Này các Tỳ-kheo, cũng như có người thương nhớ, say đắm, trông chờ, săn đón một người nữ kia, nhưng người nữ ấy lại nói chuyện với người khác, thăm hỏi lẫn nhau, qua lại chung chạ; người ấy do đó mà thân tâm phát sanh khổ não, rất buồn rầu không? 

Các Tỳ-kheo trả lời:

– Quả như vậy, bạch Thế Tôn! Vì sao thế? Vì người kia thương nhớ, say đắm và hết sức trông chờ, săn đón nữ nhân mà nữ nhân ấy lại nói chuyện với người khác, thăm hỏi lẫn nhau, qua lại chung chạ thì thâm tâm người kia làm sao khỏi sanh ra khổ não, buồn rầu.

– Này các Tỳ-kheo, nếu cho rằng người kia suy nghĩ như thế này: “Ta thương nhớ, săn đón người nữ ấy, nhưng người nữ ấy lại nói chuyện với người khác, thăm hỏi lẫn nhau, qua lại chung chạ. Nay ta có nên vì sự tự gây khổ, tự gây sầu não này mà dứt trừ sự thương nhớ, say đắm người nữ kia chăng?” Người ấy, sau đó vì tự gây khổ, tự gây sầu não nên liền dứt trừ sự thương nhớ, say đắm người nữ ấy. Nếu người nữ kia vẫn còn nói chuyện với người khác, thăm hỏi lẫn nhau, qua lại chung chạ; người ấy sau đó có thể nào vẫn còn sanh ra khổ não, buồn rầu chăng?

Các Tỳ-kheo trả lời:

– Không còn nữa, bạch Thế Tôn! Vì sao thế? Vì người ấy đối với nữ nhân kia không còn thương nhớ, say đắm nữa. Nếu nữ nhân kia vẫn còn nói chuyện với người khác, thăm hỏi lẫn nhau, qua lại chung chạ, thế mà cho rằng người kia vì thế mà thân tâm lại còn sanh khởi khổ não, buồn rầu thì điều ấy không đúng.

– Có vị Tỳ-kheo suy nghĩ như thế này: “Tùy theo sự tạo tác, tùy theo sự thực hành mà pháp bất thiện sanh khởi, thiện pháp bị tiêu diệt. Nếu tự tinh cần khổ hạnh mà pháp bất thiện bị tiêu diệt, thiện pháp sanh khởi thì ta hãy tự tinh cần khổ hạnh.” Rồi vị ấy tự tinh cần khổ hạnh. Sau khi đã tinh cần khổ hạnh, pháp bất thiện bị tiêu diệt, thiện pháp sanh khởi; bấy giờ vị ấy không còn tinh cần khổ hạnh nữa. Vì sao thế? Những gì cần phải làm trước đó nay mục đích đã thành tựu, nếu còn tinh cần khổ hạnh thì việc ấy không đúng.

Vị ấy lại nghĩ như thế này: “Nếu có những nguyên nhân để đoạn trừ các khổ não kia, ta liền đã đoạn trừ rồi, nhưng đối với dục, ta vẫn còn như cũ chớ chưa đoạn được. Nay ta hãy tìm cách đoạn được dục.” Vị ấy tìm cách đoạn dục. Vị ấy, vì để đoạn dục nên sống cô độc, ẩn dật nơi rừng vắng, hoặc đến dưới bóng cây, nơi vắng vẻ, sườn núi, động đá, đất trống, lùm cây, hoặc đi vào rừng sâu, hoặc ở giữa bãi tha ma; khi vị ấy đã sống nơi rừng vắng rồi, hoặc là đến dưới bóng cây, nơi vắng vẻ yên lặng, trải ni-sư-đàn, ngồi kiết-già, chánh thân, chánh niệm, phản chiếu tâm niệm, đoạn trừ tham lam, tâm không còn não hại, thấy của cải và dụng cụ sinh sống của người khác thì không còn móng khởi tham lam, muốn sao cho được về mình; vị ấy đối với sự tham lam đã tịnh trừ tâm ý. Cũng vậy, đối với sân nhuế, thụy miên, trạo hối, đoạn nghi, trừ hoặc, không còn do dự đối với các thiện pháp; vị ấy đối với nghi hoặc đã tịnh trừ.

Vị ấy đã đoạn trừ năm triền cái làm tâm nhơ uế, tuệ kém cỏi, ly dục, ly ác, bất thiện pháp, cho đến chứng đệ tứ thiền, thành tựu và an trú. Vị ấy đạt được tâm thanh tịnh, không nhơ uế và không phiền nhiệt, như vậy nhu nhuyến và khéo léo an trú, chứng đắc tâm bất động, tiến thẳng về lậu tận, chứng ngộ tối thông. Vị ấy biết như thật rằng: Đây là khổ, biết đây là khổ tập, biết đây là khổ diệt và biết như thật đây là khổ diệt đạo; cũng biết như thật rằng đây là lậu, biết đây là lậu tập, biết đây là lậu diệt, biết như thật đây là lậu diệt đạo. Vị ấy biết như vậy, thấy như vậy rồi thì tâm giải thoát dục lậu, tâm giải thoát hữu lậu và vô minh lậu, giải thoát rồi liền biết là giải thoát, biết như thật rằng: “Sự sanh đã dứt, Phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã xong, không còn tái sanh nữa.”

Đức Như Lai với chánh tâm giải thoát như vậy mà được năm điều tán thán như pháp, không tranh, khả ái, khả kính. Những gì là năm?

Những chúng sanh kia thọ lãnh khổ vui đều do sự tạo tác trước kia của họ. Nếu đúng như vậy thì đức Như Lai vốn có nghiệp vi diệu. Bởi vậy nên nay đức Như Lai mới có sự an lạc vô lậu của bậc Thánh, tịch tịnh, tĩnh chỉ, cảm thọ lạc. Đó là điều xưng tán thứ nhất mà đức Như Lai đạt được.

Lại nữa, chúng sanh thọ lãnh khổ vui đều do sự tập hợp, nếu đúng như vậy thì đức Như Lai vốn có sự tập hợp vi diệu. Bởi vậy nên nay đức Như Lai mới có sự tập hợp vi diệu, sự an lạc vô lậu của bậc Thánh, tịch tịnh, tĩnh chỉ, cảm thọ lạc. Đó là điều xưng tán thứ hai mà đức Như Lai đạt được.

Lại nữa, chúng sanh thọ lãnh khổ vui đều do định mạng, nếu đúng như vậy thì đức Như Lai vốn có định mạng vi diệu. Bởi vậy nên nay đức Như Lai mới có sự an lạc vô lậu của bậc Thánh, tịch tịnh, tĩnh chỉ, cảm thọ lạc. Đó là điều xưng tán thứ ba mà đức Như Lai đạt được.

Lại nữa, chúng sanh thọ lãnh khổ vui đều do kiến, nếu đúng như vậy thì đức Như Lai vốn có kiến vi diệu. Bởi vậy nên nay đức Như Lai mới có sự an lạc vô lậu của bậc Thánh, tịch tịnh, tĩnh chỉ, cảm thọ lạc. Đó là điều xưng tán thứ tư mà đức Như Lai đạt được.

Lại nữa, chúng sanh thọ lãnh khổ vui đều do đấng Tôn Hựu tạo tác, nếu đúng như vậy thì Như Lai vốn có Tôn Hựu vi diệu. Bởi vậy nên nay đức Như Lai mới có sự an lạc vô lậu của bậc Thánh, tịch tịnh, tĩnh chỉ, cảm thọ lạc. Đó là điều xưng tán thứ năm mà đức Như Lai đạt được.

Đó là nghiệp vi diệu, sự tập hợp vi diệu, định mạng vi diệu, kiến vi diệu và Tôn Hựu vi diệu vốn có của đức Như Lai, được Tôn Hựu vi diệu tạo tác. Nhân vì thế mà nay đức Như Lai có sự an lạc vô lậu của bậc Thánh, tịch tịnh, tĩnh chỉ, cảm thọ lạc. Do những sự kiến như vậy nên nay đức Như Lai được năm điều tán thán.

Có năm nhân duyên làm cho tâm sanh khởi ưu khổ. Những gì là năm? Đó là dâm dục triền, do dâm dục quấn chặt nên tâm sanh ưu khổ; cũng vậy, với sân nhuế, thụy miên, trạo hối, nghi hoặc, do nghi hoặc quấn chặt nên tâm sanh ưu khổ. Đó là năm nhân duyên làm cho tâm sanh ưu khổ. Có năm nhân duyên để diệt tâm ưu khổ. Những gì là năm? Như do dâm dục nên tâm sanh khởi ưu khổ, trừ được dâm dục triền thì ưu khổ liền bị tiêu diệt. Vì dâm dục triền nên tâm sanh ra ưu khổ, nếu trừ được nghi hoặc triền thì ưu khổ liền bị tiêu diệt. Vì nghi hoặc quấn chặt nên tâm sanh ra ưu khổ ngay trong đời hiện tại mà chứng đắc cứu cánh, không phiền, không nhiệt, thường trụ và bất biến, đó là sở tri của bậc Thánh, sở kiến của bậc Thánh. Cũng vậy, với sân nhuế, thụy miên, trạo hối, nghi hoặc, do nghi hoặc quấn chặt nên tâm sanh ra ưu khổ, trong đời hiện tại mà chứng đắc cứu cánh, không phiền, không nhiệt, thường trụ và bất biến, đó là sở tri của bậc Thánh, sở kiến của bậc Thánh. Ấy là năm nhân duyên để tâm diệt trừ ưu khổ.

Lại nữa, còn có pháp khác ngay trong đời hiện tại mà chứng đắc cứu cánh, không phiền, không nhiệt, thường trụ và bất biến, là sở tri của bậc Thánh, sở kiến của bậc Thánh. Thế nào là còn có pháp khác ngay trong đời hiện tại mà chứng đắc cứu cánh, không phiền, không nhiệt, thường trụ bất biến, là sở tri của bậc Thánh, sở kiến của bậc Thánh? Đó là tám chi Thánh đạo, tức từ chánh kiến đến chánh định, đó là tám. Ấy là còn có pháp khác ngay trong đời hiện tại mà chứng đắc cứu cánh, không phiền, không nhiệt, thường trụ và bất biến, là sở tri của bậc Thánh, sở kiến của bậc Thánh.

Đức Phật thuyết như vậy, các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật dạy xong, hoan hỷ phụng hành.

 

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.