Viện Nghiên Cứu Phật Học

Tam tạng Thánh điển PGVN 18 » Tam tạng Phật giáo Bộ phái 02 » 

Kinh Trung A-Hàm
(中阿含經)

Dịch tiếng Việt: VIỆN CAO ĐẲNG PHẬT HỌC HẢI ĐỨC - NHA TRANG
Hiệu đính: Hòa Thượng THÍCH THIỆN SIÊU

Mục Lục

16. KINH GIÀ-LAM
 

Tôi nghe như vầy:

Một thời, đức Phật du hóa tại Già-lam viên cùng đại chúng Tỳ-kheo đến Cơ-xá-tử, trụ trong vườn Thi-nhiếp-hòa phía Bắc thôn Cơ-xá-tử.

Bấy giờ, những người Già-lam ở Cơ-xá-tử nghe đồn Sa-môn Cù-đàm thuộc dòng họ Thích, đã từ giã dòng họ Thích, xuất gia học đạo, đang du hóa tại Già lam viên cùng đại chúng Tỳ-kheo đến Cơ-xá-tử này, trụ trong rừng Thi-nhiếp hòa ở phía Bắc thôn Cơ-xá-tử. Vị Sa-môn Cù-đàm ấy có tiếng tăm lớn, truyền khắp mười phương rằng: “Sa-môn Cù-đàm là bậc Như Lai, bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhơn Sư, Phật, Chúng Hựu. Vị ấy ở trong thế gian này giữa chư Thiên và Ma, Phạm, Sa-môn, Phạm chí, từ loài người cho đến loài trời, tự tri, tự giác, tự tác chứng, thành tựu và an trú. Vị ấy nếu có thuyết pháp sơ thiện, trung thiện, cứu cánh cũng thiện, có nghĩa, có văn, cụ túc thanh tịnh, hiển hiện Phạm hạnh. Nếu gặp được đức Như Lai, Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác để tôn trọng, lễ bái, cúng dường, thờ kính thì sẽ rất được thiện lợi. Chúng ta hãy cùng nhau đến gặp Sa-môn Cù-đàm để lễ bái cúng dường.” Những người Già-lam ở Cơ-xá-tử nghe như vậy, mỗi người cùng với quyến thuộc của mình kéo nhau đến Cơ-xá-tử, đi về phía Bắc, tới rừng Thi-nhiếp-hòa, họ muốn gặp đức Thế Tôn để lễ bái, cúng dường.

Đi đến chỗ Phật ngự, những người Già-lam ấy hoặc có người cúi đầu lễ dưới chân Phật rồi ngồi sang một bên, hoặc có người chào hỏi đức Phật rồi ngồi sang một bên, hoặc có người chắp tay hướng đến đức Phật rồi ngồi sang một bên, hoặc có người từ đàng xa thấy đức Phật rồi im lặng ngồi xuống.

Lúc đó, những người Già-lam đều đã ngồi yên, đức Phật thuyết pháp cho họ, khuyến phát, khát ngưỡng, thành tựu hoan hỷ. Sau khi bằng vô lượng phương tiện thuyết pháp, khuyến phát, khát ngưỡng, thành tựu tâm hoan hỷ, Ngài ngồi im lặng.

Bấy giờ, những người Già-lam sau khi đã được đức Phật thuyết pháp, khuyến phát, khát ngưỡng, thành tựu hoan hỷ, họ thảy đều từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa áo, trịch vai bên hữu, chắp tay hướng đến đức Phật rồi bạch Thế Tôn:

– Thưa Cù-đàm, có một vị Sa-môn, Phạm chí đi đến Già-lam viên chỉ tự khen ngợi tri kiến của mình mà chê bai tri kiến của người khác. Thưa Cù-đàm, lại có một vị Sa-môn, Phạm chí đi đến Già-lam viên cũng chỉ tự khen ngợi tri kiến của mình mà chê bai tri kiến của người khác. Thưa Cù-đàm, chúng tôi nghe như vậy, liền sanh ngờ vực: “Những vị Sa-môn, Phạm chí ấy, vị nào thật, vị nào hư?”

Đức Thế Tôn dạy:

– Này các người Già-lam, các người chớ sanh ra ngờ vực. Vì sao vậy? Vì nhân có ngờ vực liền sanh ra do dự. Này các người Già-lam, các người vốn không có tịnh trí để biết có đời sau hay không có đời sau. Này các người Già lam, các người cũng không có tịnh trí để biết điều đã làm có tội hay không có tội. Này các người Già-lam, nên biết các nghiệp vốn sẵn có ba tập nhân. Những gì là ba? Này các người Già-lam, tham là tập nhân sẵn có của các nghiệp. Này các người Già-lam, nhuế và si là tập nhân sẵn có của các nghiệp.

Này các người Già-lam, người có tham thì bị tham che lấp, tâm không yểm túc, hoặc sát sanh, hoặc không cho mà lấy, hoặc hành tà dâm, hoặc biết rồi nói dối, hoặc lại uống rượu. Này các người Già-lam, người có nhuế thì bị nhuế che lấp, tâm không yểm túc, hoặc sát sanh, hoặc không cho mà lấy, hoặc hành tà dâm, hoặc biết rồi nói dối, hoặc lại uống rượu.

Này các người Già-lam, người có si thì bị si che lấp, tâm không yểm túc, hoặc sát sanh, hoặc không cho mà lấy, hoặc hành tà dâm, hoặc biết rồi nói dối, hoặc lại uống rượu. Này các người Già-lam, đa văn Thánh đệ tử xa lìa việc sát, đoạn trừ việc sát; vứt bỏ đao gậy, có tàm, có quý, có tâm từ bi, làm lợi ích cho tất cả, cho đến loài côn trùng. Những vị ấy, đối với việc sát sanh, tâm đã tịnh trừ.

Này các người Già-lam, đa văn Thánh đệ tử xa lìa việc không cho mà lấy, đoạn trừ việc không cho mà lấy; chỉ lấy của được cho, vui trong việc lấy của đã được cho, thường ưa sự bố thí, vui vẻ, không keo kiết, không mong người kia đền trả. Những vị ấy, đối với việc không cho mà lấy, tâm đã tịnh trừ.

Này các người Già-lam, đa văn Thánh đệ tử xa lìa sự phi Phạm hạnh, đoạn trừ những việc phi Phạm hạnh; siêng tu Phạm hạnh, siêng tu diệu hạnh, thanh tịnh, không uế, ly dục, đoạn dâm. Những vị ấy, đối với việc phi Phạm hạnh, tâm đã tịnh trừ.

Này các người Già-lam, đa văn Thánh đệ tử xa lìa sự nói dối, đoạn trừ sự nói dối; nói lời chân thật, ưa thích sự chân thật, an trú nơi sự chân thật không di động; tất cả những điều vị ấy nói đều đáng tin, không lừa gạt thế gian. Những vị ấy đối với sự nói dối, tâm đã tịnh trừ.

Này các người Già-lam, đa văn Thánh đệ tử xa lìa sự nói hai lưỡi, đoạn trừ việc nói hai lưỡi; thực hành hạnh không nói hai lưỡi, không phá hoại kẻ khác, không nghe nơi người này nói lại với người kia muốn phá hoại người này, không nghe nơi người kia nói lại với người này vì muốn phá hoại người kia, đối với những người xa lìa nhau thì muốn kết hợp lại, thấy người kết hợp lại thì vui vẻ, không kết bè đảng, không ưa việc bè đảng, không khen việc bè đảng. Những vị ấy, đối với việc nói hai lưỡi, tâm đã tịnh trừ.

Này các người Già-lam, đa văn Thánh đệ tử xa lìa việc nói thô ác, đoạn trừ việc nói thô ác; nếu có nói những lời mà từ khí thô bạo, âm thanh hung dữ, trái tai, mọi người không vui, mọi người không ưa, làm cho người khác khổ não, làm cho họ không được yên ổn; vị ấy đoạn trừ những lời như vậy. Nếu có nói lời gì thì hòa nhã, dịu dàng, xuôi tai, đi vào lòng người, đáng thích, đáng yêu, làm cho người kia an lạc, âm thanh vừa đủ rõ ràng, không làm cho người kia sợ sệt, làm cho người kia được yên ổn, vị ấy nói những lời như vậy. Những vị ấy, đối với việc thô ác, tâm đã tịnh trừ.

Này các người Già-lam, đa văn Thánh đệ tử xa lìa lời nói thêu dệt, đoạn trừ lời nói thêu dệt; nói đúng lúc, nói đúng sự thật, nói về pháp, nói về nghĩa, nói về tịch tĩnh, ưa nói về tịch tĩnh, hợp việc, hợp thời, thích nghi, khéo dạy dỗ, khéo quở rầy. Những vị ấy, đối với việc nói lời thêu dệt, tâm đã tịnh trừ.

Này các người Già-lam, đa văn Thánh đệ tử xa lìa các tham lam, đoạn trừ tham lam; không ôm lòng não hại, thấy của cải và các nhu cầu sinh sống của người khác, không nóng lòng tham lam, muốn cho được về mình. Những vị ấy, đối với việc tham lam, tâm đã tịnh trừ.

Này các người Già-lam, đa văn Thánh đệ tử xa lìa giận dữ, đoạn trừ giận dữ, có tàm, có quý, có tâm từ bi, làm lợi ích cho tất cả, cho đến loài côn trùng. Những vị ấy, đối với việc ghét giận, tâm đã tịnh trừ.

Này các người Già-lam, đa văn Thánh đệ tử xa lìa tà kiến, đoạn trừ tà kiến; thực hành chánh kiến, không điên đảo, thấy như vầy, nói như vầy: “Có sự bố thí, có sự trai phước và cũng có chú thuyết, có thiện ác, có nghiệp báo thiện ác, có đời này đời sau, có cha, có mẹ, trên đời có những bậc chân nhân đi đến thiện xứ, khéo vượt qua cõi này, khéo hướng đến đời này và đời sau, tự tri, tự giác, tự tác chứng, thành tựu và an trú.” Những vị ấy, đối với tà kiến, tâm đã tịnh trừ.

Này các người Già-lam, đa văn Thánh đệ tử thành tựu tịnh nghiệp nơi thân, thành tựu tịnh nghiệp nơi khẩu và ý, xa lìa nhuế, xa lìa não hại, trừ bỏ ngủ nghỉ, không trạo cử, cống cao, đoạn trừ nghi, vượt qua mạn, chánh niệm, chánh trí, không có ngu si; tâm vị kia tương ứng với từ, biến mãn một phương, thành tựu và an trú; cũng vậy, trong hai, ba, bốn phương, tứ duy, thượng hạ, cùng khắp tất cả, tâm tương ưng với từ, không thù, không oán, không sân nhuế, không não hại, rất rộng lớn, vô lượng, khéo tu tập, biến mãn tất cả thế gian, thành tựu và an trú; cũng vậy, tâm bi, hỷ tương ứng với xả, không thù, không oán, không sân nhuế, không não hại, rất rộng lớn, vô lượng, khéo tu tập, biến mãn tất cả thế gian, thành tựu và an trú. Cũng vậy, này các người Già-lam, đa văn Thánh đệ tử tâm không thù, không oán, không sân nhuế, không não hại, liền được bốn trụ xứ an ổn.

Những gì là bốn? Nếu có đời này đời sau, có nghiệp báo thiện ác; khi ta đã được nghiệp tương ứng với chánh kiến này rồi, ta thọ trì đầy đủ, thân hoại mạng chung chắc chắn sanh đến thiện xứ cho đến sanh các cõi trời. Như vậy, này các người Già-lam, đa văn Thánh đệ tử tâm không thù, không oán, không sân nhuế, không não hại; đó là trụ xứ an ổn thứ nhất.

Lại nữa, này các người Già-lam, không có đời này đời sau, không có nghiệp báo thiện ác. Như vậy, ở ngay trong đời này, không phải do cớ ấy mà ta bị người kia chê bai, nhưng lại được bậc chánh trí khen ngợi là người tinh tấn, là người có chánh kiến. Như vậy, này các người Già-lam, đa văn Thánh đệ tử tâm không thù, không oán, không não hại; đó là trụ xứ an ổn thứ hai.

Lại nữa, này các người Già-lam, nếu có tạo tác, chắc chắn ta không tạo ác, vì không niệm ác. Vì sao vậy? Vì tự mình không tạo ác, khổ do đâu sanh? Như vậy, này các người Già-lam, đa văn Thánh đệ tử tâm không thù, không oán, không não hại; đó là trụ xứ an ổn thứ ba.

Lại nữa, này các người Già-lam, nếu có tạo tác, chắn chắn ta không tạo ác, vì ta không xâm phạm đời sợ hay không sợ, thường nên thương xót tất cả thế gian, tâm ta không tranh chấp với thế gian, không vẩn đục, hân hoan. Như vậy, này các người Già-lam, đa văn Thánh đệ tử tâm không thù, không oán, không não hại; đó là trụ xứ an ổn thứ tư.

Như vậy, này các người Già-lam, đa văn Thánh đệ tử tâm không kết, không oán, không sân hận, không não hại; đó là bốn trụ xứ an ổn.

Các người Già-lam bạch Phật:

– Thật như vậy, thưa Cù-đàm, đa văn Thánh đệ tử tâm không thù, không oán, không não hại, sẽ được bốn trụ xứ an ổn.

Những gì là bốn? Nếu có đời này đời sau, có nghiệp báo thiện ác; khi ta đã được nghiệp tương ứng với chánh kiến này rồi, thọ trì đầy đủ, thân hoại mạng chung chắc chắn sanh đến thiện xứ cho đến sanh lên các cõi trời. Như vậy, thưa Cù-đàm, đa văn Thánh đệ tử tâm không thù, không oán, không sân nhuế, không não hại; đó là được trụ xứ an ổn thứ nhất.

Lại nữa, thưa Cù-đàm, nếu không có đời này đời sau, không có nghiệp báo thiện ác, ngay trong đời này, không phải do cớ ấy mà ta bị người kia chê bai nhưng lại được bậc chánh trí khen ngợi là người tinh tấn, là người có chánh kiến. Như vậy, thưa Cù-đàm, đa văn Thánh đệ tử tâm không thù, không oán, không sân nhuế, không não hại; đó là được trụ xứ an ổn thứ hai.

Lại nữa, thưa Cù-đàm, nếu có tạo tác, chắc chắn ta không tạo ác. Vì sao vậy? Vì tự mình không tạo ác, khổ do đâu sanh? Như vậy, thưa Cù-đàm, đa văn Thánh đệ tử tâm không thù, không oán, không sân nhuế, không não hại; đó là được trụ xứ an ổn thứ ba.

Lại nữa, thưa Cù-đàm, nếu có tạo tác, chắc chắn ta không tạo ác, vì ta không xâm phạm đời sợ hay không sợ, thường nên thương xót tất cả thế gian, tâm ta không tranh chấp với thế gian, không vẩn đục, hân hoan.

Như vậy, thưa Cù đàm, đa văn Thánh đệ tử tâm không thù, không oán, không sân nhuế, không não hại; đó là được trụ xứ an ổn thứ tư. Như vậy, thưa Cù-đàm, đa văn Thánh đệ tử tâm không kết, không oán, không sân hận, không não hại; đó là được bốn trụ xứ an ổn.

Thưa Cù-đàm, chúng con đã biết! Bạch Thiện Thệ, chúng con đã hiểu! Bạch Thế Tôn, chúng con nay xin tự quy y Phật, Pháp và chúng Tỳ-kheo! Cúi mong Thế Tôn nhận chúng con làm ưu-bà-tắc, kể từ hôm nay, trọn đời nguyện đem mình quy y cho đến khi mạng chung!

Đức Phật thuyết như vậy, tất cả các người Già-lam và các vị Tỳ-kheo nghe đức Phật dạy xong, hoan hỷ phụng hành.

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.