Tam tạng Thánh điển PGVN 18 » Tam tạng Phật giáo Bộ phái 02 »
Dịch tiếng Việt: VIỆN CAO ĐẲNG PHẬT HỌC HẢI ĐỨC - NHA TRANG
Hiệu đính: Hòa Thượng THÍCH THIỆN SIÊU
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật du hóa nước Xá-vệ, trong rừng Thắng Lâm, vườn Cấp Cô Độc.
Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo rằng:
– Nếu kẻ nào cố ý tạo nghiệp, Ta nói rằng kẻ ấy phải thọ quả báo, hoặc thọ ngay trong đời hiện tại, hoặc thọ vào đời sau. Nếu tạo nghiệp mà không cố ý, Ta nói rằng người ấy chắc chắn không thọ quả báo.
Ở đây, thân cố ý tạo ba nghiệp bất thiện đưa đến khổ quả và sự thọ khổ báo. Miệng có bốn nghiệp, ý có ba nghiệp bất thiện đưa đến khổ quả, thọ khổ báo.
Những gì là ba nghiệp do thân cố tạo, bất thiện đưa đến khổ quả và sự thọ khổ báo? Một là sát sanh: Quá hung dữ, uống máu, cứ muốn sát hại, không thương xót chúng sanh cho đến loài côn trùng. Hai là không cho mà lấy: Đắm trước tài vật của kẻ khác với ý muốn trộm cắp. Ba là tà dâm: Người kia đối với con gái có cha gìn giữ, hoặc được mẹ gìn giữ, hoặc được anh em gìn giữ, hoặc được cô cậu gìn giữ, hoặc được người thân thuộc gìn giữ, hoặc được người cùng dòng họ gìn giữ, hoặc đối với những phụ nữ khác bị đe dọa bằng hình phạt hay roi vọt, hoặc đã được thuê, hoặc đã hứa hôn, cho đến chỉ mới nhận tràng hoa làm tin; nếu chính mình xúc phạm tới những người nữ như vậy. Đó là ba nghiệp do thân cố ý tạo bất thiện đưa đến khổ quả và sự thọ lấy khổ báo.
Những gì là bốn nghiệp do miệng cố ý tạo bất thiện đưa đến khổ quả và sự thọ lấy khổ báo? Một là nói dối: Người kia, hoặc ở giữa đám đông, hoặc ở trong quyến thuộc, hoặc ở tại vương gia, nếu có ai kêu người ấy mà hỏi rằng: “Ngươi có biết thì nói”, nhưng người ấy không biết nói biết, biết mà nói không biết, không thấy nói thấy, thấy nói không thấy, vì mình, vì người, hoặc vì của cải, biết rồi mà lại nói dối. Hai là nói hai lưỡi: Muốn ly gián người khác nên nghe nơi người này đem nói lại với người kia vì muốn phá hoại người này, nghe nơi người kia đem nói lại người này vì muốn phá hoại người kia, những kẻ hợp nhau muốn cho ly tán, những kẻ đã ly tán lại muốn cho xa rời để kết bè đảng. Ba là nói thô ác: Người ấy nếu có nói năng gì thì lời lẽ thô tục, hung bạo, tiếng dữ trái tai, không ai ưa nổi, không ai mến nổi, làm cho người khác khổ não, khiến cho không được định tâm, nói lời như vậy. Bốn là nói thêu dệt: Người ấy nói không đúng lúc, nói không thành thật, nói lời không đúng nghĩa, nói lời không đúng pháp, nói lời không tịch tĩnh, lại còn khen ngợi sự không tịch tĩnh, trái ngược thời gian, không khéo dạy dỗ, không khéo la mắng. Đó là bốn nghiệp do miệng cố ý tạo bất thiện đưa đến khổ quả và sự thọ lấy khổ báo. Những gì là ba nghiệp do cố ý tạo bất thiện đưa đến khổ quả và sự thọ lấy khổ báo? Đó là tham: Rình mò của cải và các nhu cầu sinh sống của người khác, thường tham lam, ước muốn sao cho được về của mình. Hai là sân nhuế: Trong ý ôm lòng oán ghét, nghĩ rằng: “Chúng sanh kia đáng giết, đáng trói, đáng bắt, đáng loại bỏ, đáng đuổi đi, mong cho kẻ kia thọ khổ vô lượng.” Ba là tà kiến, sở kiến điên đảo: Thấy như vầy, nói như vầy: “Không có bố thí, không có trai phước, không có chú thuyết, không có nghiệp thiện ác và nghiệp báo thiện ác, không có đời này và đời sau, không có cha mẹ, trên đời này không có bậc chân nhân đi đến thiện xứ, khéo vượt qua cõi này, khéo hướng đến đời này hay đời sau, tự tri, tự giác, tự tác chứng, thành tựu và an trú.” Đó là ba nghiệp do ý cố tạo bất thiện đưa đến khổ quả, thọ lấy khổ báo.
Đa văn Thánh đệ tử xả bỏ nghiệp bất thiện của thân, tu thân thiện nghiệp; xả bỏ nghiệp bất thiện của miệng và ý, tu thiện nghiệp miệng và ý. Đa văn Thánh đệ tử đầy đủ giới đức tinh tấn như vậy, thành tựu tịnh nghiệp nơi thân, đầy đủ tịnh nghiệp nơi miệng và ý, lìa sân nhuế, lìa não hại, từ bỏ ngủ nghỉ, không trạo cử và cống cao, đoạn nghi, vượt kiêu mạn, chánh niệm, chánh trí, không còn ngu si; tâm vị ấy đi đôi với từ, rải khắp một phương, thành tựu và an trú. Cũng vậy, với hai, ba, bốn phương và bốn góc trên dưới, rải khắp tất cả, tâm đi đôi với từ, không thù, không oán, không sân nhuế, không não hại, quảng đại vô biên, vô lượng, khéo tu tập, rải khắp tất cả thế gian, thành tựu và an trú. Người kia suy nghĩ rằng: “Tâm ta xưa kia vốn nhỏ hẹp, không khéo tu; tâm ta nay quảng đại vô lượng, khéo tu tập.” Đa văn Thánh đệ tử với vô lượng, khéo tu tập như vậy, nếu trước kia nhân ác tri thức, vì đã phóng dật mà tạo tác nghiệp bất thiện; nay những thứ ấy không thể lôi kéo, không thể làm ô uế, không còn đi theo nữa. Giả sử có một trẻ thơ, hoặc trai hoặc gái, vừa sanh ra liền có thể tu hành từ tâm giải thoát; về sau thân, khẩu và ý có còn tạo những nghiệp bất thiện nữa chăng?
Các Tỳ-kheo thưa:
– Bạch Thế Tôn, không thể! Vì sao vậy? Tự mình không tạo ác nghiệp thì ác nghiệp ấy do đâu mà sanh?
– Do đó, người tại gia và xuất gia, nam hay nữ thường phải siêng tu từ tâm giải thoát. Nếu người tại gia và xuất gia, nam hay nữ ấy tu từ tâm giải thoát thì không còn mang thân này đi đến đời sau mà chỉ theo tâm đi khỏi cõi này. Tỳ-kheo nên nghĩ như vầy: “Ta vốn vì buông lung mà tạo nghiệp bất thiện, tất cả có thể thọ báo trong đời này chứ không để đến đời sau nữa.” Nếu có người thực hành từ tâm giải thoát rộng lớn vô lượng, khéo tu tập như vậy, chắc chắn người ấy sẽ chứng quả A-na-hàm, hoặc chứng cao hơn nữa. Cũng vậy, tâm bi và hỷ tương ứng với xả, không thù, không oán, không sân nhuế, không não hại, quảng đại vô lượng, vô biên, khéo tu tập, rải khắp tất cả thế gian, thành tựu và an trú. Người ấy suy nghĩ như vầy: “Tâm ta trước vốn nhỏ hẹp, không khéo tu tập; tâm ta nay rộng lớn vô lượng, được khéo tu tập.” Đa văn Thánh đệ tử với tâm vô lượng, khéo tu tập như vậy, nếu trước kia nhân ác tri thức mà đã phóng dật và tạo nghiệp bất thiện, nay những thứ ấy không thể lôi kéo, không thể làm cho ô uế, không còn đi theo nữa. Giả sử có một trẻ thơ trai hay gái vừa sanh ra liền có thể thực hành xả tâm giải thoát, về sau thân, khẩu, ý có còn tạo tác những nghiệp bất thiện nữa chăng?
Tỳ-kheo trả lời:
– Bạch Thế Tôn, không thể! Vì sao vậy? Tự mình không tạo ác nghiệp thì ác nghiệp do đâu mà sanh?
– Do đó, người tại gia và xuất gia, nam hay nữ thường phải siêng tu xả tâm giải thoát; nếu những người tại gia và xuất gia, nam hay nữ kia mà tu xả tâm giải thoát, sẽ không còn mang thân này đi đến đời sau mà chỉ theo tâm đi khỏi cõi này. Tỳ-kheo nên nghĩ như vầy: “Ta vốn buông lung tạo nghiệp bất thiện, tất có thể thọ báo trong đời này chứ không để đến đời sau nữa.” Nếu có người thực hành xả tâm giải thoát, rộng lớn vô lượng, khéo tu tập như vậy, chắc chắn chứng quả A-na-hàm hay là chứng cao hơn.
Đức Phật thuyết như vậy, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, hoan hỷ phụng hành.
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.