Tam tạng Thánh điển PGVN 18 » Tam tạng Phật giáo Bộ phái 02 »
Dịch tiếng Việt: VIỆN CAO ĐẲNG PHẬT HỌC HẢI ĐỨC - NHA TRANG
Hiệu đính: Hòa Thượng THÍCH THIỆN SIÊU
Tôi nghe như vầy:
Một thời, đức Thế Tôn du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng Lâm, vườn Cấp Cô Độc.
Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo rằng:
– Nếu có Tỳ-kheo thành tựu bảy pháp, tất được vui vẻ, an lạc trong bậc Hiền thánh, thẳng tiến đến lậu tận. Bảy pháp đó là gì? Đó là biết pháp, biết nghĩa, biết thời, biết tiết độ, biết mình, biết hội chúng và biết sự hơn kém của người.
Thế nào gọi là Tỳ-kheo biết pháp? Nghĩa là Tỳ-kheo biết Chánh kinh, Ca vịnh, Ký thuyết, Kệ-tha, Nhân duyên, Soạn lục, Bản khởi, Thử thuyết, Sanh xứ, Quảng giải, Vị tằng hữu pháp và Thuyết nghĩa. Ấy là Tỳ-kheo biết pháp. Nếu có Tỳ-kheo không biết pháp, tức không biết Chánh kinh, Ca vịnh, Ký thuyết, Kệ-tha, Nhân duyên, Soạn lục, Bản khởi, Thử thuyết, Sanh xứ, Quảng giải, Vị tằng hữu pháp và Thuyết nghĩa. Tỳ-kheo như vậy là không biết pháp. Nếu có Tỳ-kheo khéo biết pháp, tức biết Chánh kinh, Ca vịnh, Ký thuyết, Kệ-tha, Nhân duyên, Soạn lục, Bản khởi, Thử thuyết, Sanh xứ, Quảng giải, Vị tằng hữu pháp và Thuyết nghĩa. Ấy là Tỳ-kheo khéo biết pháp.
Như thế nào là Tỳ-kheo biết nghĩa? Nghĩa là Tỳ-kheo biết nghĩa của các loại giáo thuyết này hay giáo thuyết kia, biết điều này có nghĩa như thế kia, biết điều kia có nghĩa như thế này. Ấy là Tỳ-kheo biết nghĩa. Nếu có Tỳ-kheo không biết nghĩa, tức là không biết nghĩa của những loại giáo thuyết này hay giáo thuyết kia, không biết điều này có nghĩa như thế kia, không biết điều kia có nghĩa như thế này. Tỳ-kheo như vậy là không biết nghĩa. Nếu có Tỳ-kheo khéo biết nghĩa, tức biết nghĩa của những giáo thuyết này hay giáo thuyết kia, biết điều này có nghĩa như thế kia, biết điều kia có nghĩa như thế này. Ấy là Tỳ-kheo khéo biết nghĩa.
Như thế nào là Tỳ-kheo biết thời? Nghĩa là Tỳ-kheo biết lúc nào nên tu pháp thấp, lúc nào nên tu pháp cao, lúc nào nên tu pháp xả. Ấy là Tỳ-kheo biết thời. Nếu có Tỳ-kheo không biết thời, tức không biết lúc nào nên tu pháp thấp, lúc nào nên tu pháp cao, lúc nào nên tu pháp xả. Tỳ-kheo như vậy là không biết thời. Nếu có Tỳ-kheo khéo biết thời, tức biết lúc nào nên tu pháp thấp, lúc nào nên tu pháp cao, lúc nào nên tu pháp xả. Ấy là Tỳ-kheo khéo biết thời.
Như thế nào là Tỳ-kheo biết tiết độ? Tỳ-kheo biết tiết độ trong việc uống, ăn, đi, đứng, ngồi, nằm, nói năng, im lặng, đại tiểu tiện và biết giảm bớt ngủ nghỉ, tu tập chánh trí. Ấy là Tỳ-kheo biết tiết độ. Nếu có Tỳ-kheo không biết tiết độ, tức không biết tiết độ trong việc uống, ăn, đi, đứng, nằm, ngồi, nói năng, im lặng, đại tiểu tiện và không biết giảm bớt ngủ nghỉ, tu tập chánh trí. Tỳ-kheo như vậy là không biết tiết độ.
Nếu có Tỳ-kheo khéo biết tiết độ, tức biết tiết độ về các việc uống, ăn, đi, đứng, ngồi, nằm, nói năng, im lặng, đại tiểu tiện và biết giảm bớt ngủ nghỉ, tu tập chánh trí. Ấy là Tỳ-kheo khéo biết tiết độ. Như thế nào là Tỳ-kheo biết mình? Tỳ-kheo tự biết mình có chừng ấy tín, giới, văn, thí, huệ, biện A-hàm và sở đắc. Tỳ-kheo như vậy là biết mình. Nếu có Tỳ-kheo không biết mình, tức không tự biết mình có chừng ấy tín, giới, văn, thí, huệ, biện A-hàm và sở đắc. Tỳ-kheo như vậy là không biết mình. Nếu có Tỳ-kheo khéo biết mình, tức tự biết mình có chừng ấy tín, giới, văn, thí, huệ, biện A-hàm và sở đắc. Ấy là Tỳ-kheo khéo biết mình.
Như thế nào là Tỳ-kheo biết hội chúng? Tỳ-kheo biết: “Đây là hội chúng Sát-lợi, đây là hội chúng Phạm chí, đây là hội chúng cư sĩ, đây là hội chúng Sa-môn; và ở nơi hội chúng ấy, ta nên đi như vậy, đứng như vậy, ngồi như vậy, nói như vậy, im lặng như vậy.” Ấy là Tỳ-kheo biết hội chúng. Nếu có Tỳ-kheo không biết hội chúng, tức không biết: “Đây là hội chúng Sát-lợi, đây là hội chúng Phạm chí, đây là hội chúng cư sĩ, đây là hội chúng Sa-môn; và ở nơi hội chúng ấy, ta nên đi như vậy, đứng như vậy, ngồi như vậy, nói như vậy, im lặng như vậy.” Tỳ-kheo như vậy là không biết hội chúng. Nếu có Tỳ-kheo khéo biết hội chúng, tức biết: “Đây là hội chúng Sát-lợi, đây là hội chúng Phạm chí, đây là hội chúng cư sĩ, đây là hội chúng Sa-môn; và ở nơi hội chúng ấy, ta nên đi như vậy, đứng như vậy, ngồi như vậy, nói như vậy, im lặng như vậy.” Ấy là Tỳ kheo khéo biết hội chúng.
Như thế nào là Tỳ-kheo biết sự hơn kém của người? Là Tỳ-kheo biết có hai hạng người: Có lòng tin và không có lòng tin. Người có lòng tin là cao thượng, người không có lòng tin là thấp kém. Người có lòng tin lại có hai hạng: Thường đến gặp thầy Tỳ-kheo và không thường đến gặp thầy Tỳ-kheo. Người thường đến gặp thầy Tỳ-kheo là cao thượng, người không thường đến gặp thầy Tỳkheo là thấp kém. Người thường đến gặp thầy Tỳ-kheo lại có hai hạng: Có kính lễ thầy Tỳ-kheo và không kính lễ thầy Tỳ-kheo. Người kính lễ thầy Tỳ-kheo là cao thượng, người không kính lễ thầy Tỳ-kheo là thấp kém. Người kính lễ thầy Tỳ-kheo lại có hai hạng: Có hỏi kinh và không hỏi kinh. Người có hỏi kinh là cao thượng, người không có hỏi kinh là thấp kém. Người có hỏi kinh lại có hai hạng: Nhất tâm nghe kinh và không nhất tâm nghe kinh. Người nhất tâm nghe kinh là cao thượng, người không nhất tâm nghe kinh là thấp kém. Người nhất tâm nghe kinh lại có hai hạng: Nghe rồi chấp trì pháp và nghe rồi không chấp trì pháp. Người nghe rồi có chấp trì pháp là cao thượng, người nghe rồi không chấp trì pháp là thấp kém. Người nghe rồi có chấp trì pháp lại có hai hạng: Nghe pháp có quán sát nghĩa và nghe pháp không quán sát nghĩa. Người nghe pháp có quán sát nghĩa là cao thượng, người nghe pháp không quán sát nghĩa là thấp kém. Người nghe pháp có quán sát nghĩa lại có hai hạng: Biết pháp, biết nghĩa, hướng pháp, thứ pháp, tùy thuận pháp, thực hành đúng như pháp; và hạng không biết pháp, không biết nghĩa, không hướng pháp, không thứ pháp, không tùy thuận pháp, không thực hành đúng như pháp. Người biết pháp, biết nghĩa, hướng pháp, thứ pháp, tùy thuận pháp, thực hành đúng như pháp là cao thượng; người không biết pháp, không biết nghĩa, không hướng pháp, không thứ pháp, không tùy thuận pháp, không thực hành đúng như pháp là thấp kém. Người biết pháp, biết nghĩa, hướng pháp, thứ pháp, tùy thuận pháp, thực hành đúng như pháp lại có hai hạng: Tự làm lợi ích, cũng làm lợi ích cho người khác, làm lợi ích cho mọi người, xót thương thế gian, cầu nghĩa lý, lợi ích, an ổn và khoái lạc cho trời và người; và hạng không tự làm lợi ích, cũng không làm lợi ích cho người khác, không làm lợi ích cho mọi người, không xót thương thế gian, không cầu nghĩa lý, lợi ích, an ổn và khoái lạc cho trời và người. Nếu người nào tự làm lợi ích, cũng làm lợi ích cho người khác, làm lợi ích cho mọi người, xót thương thế gian, cầu nghĩa lý, lợi ích, an ổn và khoái lạc cho trời và người; người ấy là bậc nhất, là hơn, là trên, là tối cao, là hơn hết, là tôn quý, là tuyệt diệu giữa mọi người. Ví như từ bò có sữa, từ sữa có lạc, từ lạc có sanh tô, từ sanh tô có thục tô, từ thục tô có tinh tô; tinh tô là bậc nhất, là hơn, là trên, là tối cao, là hơn hết, là tôn quý, là tuyệt diệu đối với những loại kia. Cũng vậy, nếu người nào tự làm lợi ích, cũng làm lợi ích cho người khác, làm lợi ích cho mọi người, xót thương thế gian, cầu nghĩa lý, lợi ích, an ổn và khoái lạc cho trời và người thì trong hai hạng người như trên đã nói, đã phân biệt, đã thi thiết; người ấy là bậc nhất, là lớn, là trên, là tối cao, là hơn hết, là tôn quý, là tuyệt diệu. Ấy là Tỳ-kheo biết sự hơn và kém của người.
Đức Phật dạy như thế, các vị Tỳ-kheo kia nghe lời Phật nói xong, hoan hỷ phụng hành.
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.