Tam tạng Thánh điển PGVN 21 » Tam tạng Phật giáo Bộ phái 05 »
TRUNG TÂM DỊCH THUẬT TRÍ TỊNH
QUYỂN 50
Tôi nghe như vầy:
Một thời, đức Phật ngụ tại Trúc Lâm, vườn Ca-lan-đà, thuộc thành Vương Xá.
Bấy giờ, có Tỳ-kheo-ni Thúc-ca-la[2] đang ở trong chúng Tỳ-kheo-ni tại ngự viên, được dân chúng thành Vương Xá cung kính cúng dường như bậc A-la-hán.
Một lần, nhân ngày lễ hội cúng sao,[3] dân chúng thành Vương Xá tụ tập đại hội vui chơi, nên ngày đó không ai nhớ việc cúng dường. Có một quỷ thần vì kính trọng Tỳ-kheo-ni ấy nên đi vào trong đường hẻm thành Vương Xá, đến từng nhà rồi nói kệ:
Dân chúng thành Vương Xá, Say sưa, ngủ li bì, Không thường dâng cúng dường, Tỳ-kheo-ni Thúc-ca.
Nhờ khéo tu các căn,
Nên gọi Thúc-ca-la,
Khéo thuyết pháp lìa cấu,
Pháp Niết-bàn thanh lương.
Tùy thuận nghe pháp ấy,
Trọn ngày vui, không chán,
Trí tuệ nhờ nghe pháp,
Vượt được dòng sanh tử,
Như người buôn qua biển,
Nương nhờ sức ngựa chúa.[4]
Khi ấy, có một ưu-bà-tắc đem y áo đến cúng dường Tỳ-kheo-ni Thúc-ca-la, rồi lại có một ưu-bà-tắc khác đem thức ăn đến cúng dường. Vị quỷ thần kia liền nói kệ:
Ưu-bà-tắc có trí,
Được phước lợi rất nhiều,
Cúng Thúc-ca y áo,
Vị đã lìa phiền não.
Ưu-bà-tắc có trí,
Được phước lợi rất nhiều,
Cúng Thúc-ca thức ăn,
Vị đã lìa trói buộc.[5]
Bấy giờ, vị quỷ thần ấy nói kệ xong rồi liền biến mất.
[1] Tựa đề đặt theo nội dung kinh. Tạp. 雜 (T.02. 0099.1327. 0365a24). Tham chiếu: Biệt Tạp. 别雜 (T.02. 0100.327. 0483b26); S. 10.9-10 - I. 212.
[2] Thúc-ca-la (叔迦羅, Sukkā).
[3] Nguyên tác: Cát tinh nhật (吉星日): Ngày giáng hạ của một vì sao tốt. Vào những ngày này, người dân Ấn Độ nói chung thường tổ chức lễ hội cúng tế, vui chơi. Tập tục này hiện còn tồn tại đến ngày nay. Theo tín niệm Ấn giáo, trăng sao có một ý nghĩa rất đặc biệt vì mỗi con người sanh ra đều gắn với một vì sao. Theo một bản kinh thuộc Ấn giáo hiện còn được bảo lưu trong Đại Chánh tạng, tức là Kinh Phạm thiên hỏa la cửu diệu 梵天火羅九曜 (T.21. 1311.1. 0462a05): Nếu gặp sao xấu thì nên cúng tế sẽ tránh được những điều không thuận lợi, tức biến xấu thành tốt, nếu không tin sẽ biến tốt thành xấu (若遇惡星須攘之. 諸不逆其所犯. 即變凶成吉. 不信即變吉成凶).
[4] Ví dụ này xem thêm Thương nhân cầu tài kinh 商人求財經 (T.01. 0026.136. 0642a28); Tăng. 增 (T.02. 0125.45.1. 0769b15).
[5] Nguyên tác: Tích tụ (積聚). Tứ A-hàm mộ sao giải 四阿鋡暮抄解 (T.25. 1505.02. 0010c25) giải thích: Ấm, tích tụ và trói buộc cùng một nghĩa (陰, 積聚, 束是一義). S. 10.10 - I. 459: Sabbaganthehi vippamuttiyā'ti (Một vị đã giải thoát / Tất cả mọi triền phược), HT. Thích Minh Châu dịch.
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.