Tam tạng Thánh điển PGVN 21 » Tam tạng Phật giáo Bộ phái 05 »
TRUNG TÂM DỊCH THUẬT TRÍ TỊNH
QUYỂN 48
Tôi nghe như vầy:
Một thời, đức Phật ngụ tại Trúc Lâm, vườn Ca-lan-đà, thuộc thành Vương Xá.
Bấy giờ, có Tỳ-kheo Cù-ca-lê[22] là người thuộc nhóm Đề-bà-đạt-đa, đi đến chỗ Phật, lạy sát chân Ngài rồi ngồi sang một bên.
Khi ấy, Thế Tôn nói với Cù-ca-lê:
Này Cù-ca-lê! Vì sao đối với Phạm hạnh thanh tịnh của Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên mà thầy lại khởi tâm không thanh tịnh? Như vậy thầy sẽ phải chịu khổ não lâu dài, không được lợi ích.
Tỳ-kheo Cù-ca-lê bạch Phật:
Bạch Thế Tôn! Nay con tin lời của Thế Tôn, lời Ngài nói không sai. Nhưng Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên có tâm tham muốn sai trái.
Cù-ca-lê nói như vậy hai, ba lần. Tỳ-kheo Cù-ca-lê là người thuộc nhóm Đề-bà-đạt-đa, ở chỗ Thế Tôn, lặp đi lặp lại ba lần như vậy, chống đối, không chịu vâng lời, rồi đứng dậy bỏ đi. Sau khi bỏ đi, khắp thân thể thầy ấy liền nổi đầy mụt nhọt giống như hạt dẻ rồi dần dần to lên như trái đào. Khi ấy, Tỳ-kheo Cù-ca-lê đau đớn khốn khổ, buộc miệng rên la: “Nóng quá! Nóng quá!”, rồi máu mủ chảy ra, sau đó qua đời, đọa vào địa ngục lớn Bát-đàm-ma.[23]
Bấy giờ, trời gần về sáng, có ba vị thiên tử dung sắc tuyệt diệu, đi đến chỗ Phật, lạy sát chân Ngài rồi ngồi sang một bên. Lúc này, một thiên tử bạch Phật:
Kính bạch Thế Tôn! Tỳ-kheo Cù-ca-lê là người của nhóm Đề-bà-đạt-đa, nay đã qua đời.
Thiên tử thứ hai thưa:
Chư Tôn nên biết, Tỳ-kheo Cù-ca-lê lâm chung, đọa vào địa ngục.
Thiên tử thứ ba lại nói kệ:
Người sống ở thế gian,
Búa sanh từ trong miệng,
Trở lại chặt thân mình,
Đó vì lời nói ác.
Đáng chê thì khen ngợi,
Đáng khen lại chê bai,
Tội ấy từ miệng sanh,
Chết đọa vào đường ác.
Cờ bạc mất hết của,
Phải, quấy là lỗi to,
Hủy báng Phật và Tăng,
Đó là tội rất lớn.
Ba vị thiên tử kia sau khi nói kệ xong liền biến mất.
Sáng sớm hôm sau, Thế Tôn đi vào trong Tăng chúng, trải tòa ngồi trước đại chúng và nói với các Tỳ-kheo:
Cuối đêm hôm qua, có ba vị thiên tử đến chỗ Như Lai, đảnh lễ sát chân Như Lai rồi ngồi sang một bên. Vị thiên tử thứ nhất nói với Như Lai:
“Kính bạch Thế Tôn! Tỳ-kheo Cù-ca-lê thuộc nhóm của Đề-bà-đạt-đa, nay đã lâm chung.”
Thiên tử thứ hai thưa:
“Tỳ-kheo Cù-ca-lê qua đời, đọa vào địa ngục.”
Vị thiên tử thứ ba lại nói kệ:
Người sống ở thế gian,
Búa sanh từ trong miệng,
Trở lại chặt thân mình,
Đó vì lời nói ác.
Đáng chê thì khen ngợi,
Đáng khen lại chê bai,
Tội ấy từ miệng sanh,
Chết đọa vào đường ác.
Sau khi nói kệ xong, các thiên tử liền biến mất. Này các Tỳ-kheo! Các thầy có muốn biết kỳ hạn thọ mạng của chúng sanh trong địa ngục A-phù-đà24 không?
Các Tỳ-kheo bạch Phật:
Kính bạch Thế Tôn! Nay thật đúng lúc, cúi xin Thế Tôn vì đại chúng nói về kỳ hạn thọ mạng của chúng sanh trong địa ngục A-phù-đà. Tỳ-kheo chúng con nghe xong sẽ lãnh thọ phụng hành.
Phật bảo các Tỳ-kheo:
Hãy lắng nghe và khéo suy nghĩ! Ta sẽ vì các thầy mà giảng nói. Ví như tại nước Câu-tát-la, bốn thăng là một a-la, bốn a-la là một độc-lung-na, mười sáu độc-lung-na là một xà-ma-na, mười sáu xà-ma-na là một ma-ni, hai mươi ma-ni là một khư-lê, hai mươi khư-lê là một kho, trong kho đựng đầy hạt cải. Giả sử, nếu có người cứ một trăm năm thì lấy ra một hạt cải, cứ như thế cho đến khi lấy hết sạch kho hạt cải đầy ắp kia thì thọ mạng của chúng sanh trong địa ngục A-phù-đà vẫn chưa hết. Thọ mạng của chúng sanh trong hai mươi địa ngục A-phù-đà như vậy bằng thọ mạng của chúng sanh trong một địa ngục Ni-la-phù-đà.[25] Thọ mạng của chúng sanh trong hai mươi ngục Nila-phù-đà bằng thọ mạng của chúng sanh trong một địa ngục A-tra-tra.[26] Thọ mạng của chúng sanh trong hai mươi địa ngục A-tra-tra bằng thọ mạng của chúng sanh trong một địa ngục A-ba-ba.[27] Thọ mạng của chúng sanh trong hai mươi địa ngục A-ba-ba bằng thọ mạng của chúng sanh trong một địa ngục A-hưu-hưu.[28] Thọ mạng của chúng sanh trong hai mươi địa ngục A-hưu-hưu bằng thọ mạng của chúng sanh trong một địa ngục Ưu-bát-la.[29] Thọ mạng của chúng sanh trong hai mươi địa ngục Ưu-bát-la bằng thọ mạng của chúng sanh trong một địa ngục Bát-đàm-ma. Thọ mạng của chúng sanh trong hai mươi địa ngục Bát-đàm-ma bằng thọ mạng của chúng sanh trong một địa ngục Maha Bát-đàm-ma.
Này các Tỳ-kheo! Tỳ-kheo Cù-ca-lê kia lâm chung đọa vào địa ngục Ma-ha Bát-đàm-ma. Do Tỳ-kheo ấy đã sanh ác tâm phỉ báng đối với Tôn giả Xá-lợiphất và Mục-kiền-liên. Vì vậy, này các Tỳ-kheo! Các thầy cần phải học tập như vầy: “Đối với tim đèn và đốm lửa đang cháy kia mà còn không muốn hủy hoại, huống là hủy hoại chúng sanh có tình thức.”
Đức Phật lại bảo các Tỳ-kheo cần phải học tập như vậy.
Đức Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy đều hoan hỷ phụng hành.
Chú thích:
[21] Tựa đề đặt theo nội dung kinh. Tạp. 雜 (T.02. 0099.1278. 0351b12). Tham chiếu: Biệt Tạp. 别雜 (T.02. 0100.276. 0470a14); Tăng. 增 (T.02. 0125.21.5. 0603b02); S. 2.22 - I. 57; S. 6.9-10 - I. 149; A. 4.3 - II. 2; A. 10.89 - V. 170; Sn. 3.10 - 124.
[22] Cù-ca-lê (瞿迦梨, Kokāliya).
[23] Bát-đàm-ma địa ngục (鉢曇摩地獄, Padumaniraya): Địa ngục Sen Hồng. 24 A-phù-đà (阿浮陀, Abbuda)
[24]A-phù-đà (阿浮陀, Abbuda).
[25] Ni-la-phù-đà (尼羅浮陀, Nirabbuda).
[26] A-tra-tra (阿吒吒, Aṭaṭa).
[27] A-ba-ba (阿波波, Ababa).
[28] A-hưu-hưu (阿休休, Ahaha).
[29] Ưu-bát-la (優鉢羅, Uppalaka).
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.