Viện Nghiên Cứu Phật Học

QUYỂN 47

1248. PHƯƠNG PHÁP CHĂN BÒ[1]

 

Tôi nghe như vầy:

Một thời, đức Phật ngụ tại Trúc Lâm, vườn Ca-lan-đà, thuộc thành Vương Xá.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

Thời quá khứ, có người chăn bò mê mờ, thiếu trí tuệ ở nước Ma-kiệt-đề. Vào cuối hạ đầu thu, [người ấy] không khéo quán sát bờ bên này sông Hằng, cũng không quán sát kỹ bờ bên kia sông Hằng mà lùa bầy bò xuống bờ sông dựng đứng, hoặc lùa bò lên bờ sông dựng đứng, hoặc lội qua giữa dòng nước xiết nên gặp phải nhiều tai nạn.

Này các Tỳ-kheo! Thời quá khứ, tại nước Ma-kiệt-đề có người chăn bò không mê muội, không si mê, có trí tuệ, có phương pháp. Cuối hạ đầu thu, [người ấy] khéo léo quán sát bờ bên này sông Hằng và quán sát kỹ bờ bên kia sông Hằng, khéo lùa bò qua sông, đến thung lũng bằng phẳng rộng rãi, nơi có cỏ tươi, nước sạch. Khi bắt đầu lùa bò qua sông, trước tiên người ấy lùa những con bò lớn có khả năng dẫn đàn để chặn bớt dòng nước đang chảy xiết kia, tiếp theo là những con bò trẻ sung sức và sau cùng là những con bò nhỏ gầy yếu đi phía dưới dòng nước. Nhờ vậy mà tất cả đều lần lượt qua sông an ổn. Những con bê mới sanh đang còn quyến luyến bên mẹ cũng theo sau mẹ qua được bờ kia.

Cũng vậy, này Tỳ-kheo! Ta nói ví dụ đó để các thầy hiểu về ý nghĩa này: Người chăn bò ngu muội vô trí ở nước Ma-kiệt-đề là dụ cho nhóm lục sư ngoại đạo như Phú-lan-na... cũng giống như vậy, luôn hành theo những tà kiến, hướng đến đường tà. Giống như người chăn bò mê muội vô trí kia, vào cuối hạ đầu thu không quán sát kỹ bờ bên này, bờ bên kia, không quán sát kỹ núi cao hiểm trở mà lùa bò xuống bờ dốc, lên bờ dốc hoặc xua bò ra giữa dòng nước xiết nên gặp phải nhiều tai nạn. Cũng vậy, các lục sư ngoại đạo như Phú-lan-na... mê muội, thiếu hiểu biết, không biết xem xét bờ bên này là chỉ cho đời này, không biết xem xét bờ kia là chỉ cho đời khác; nước xoáy ở giữa dòng là chỉ cho các ma cảnh nên tự họ phải chuốc những khổ nạn ấy. Những tà kiến kia và những sở học được huân tập đều dẫn đến các hoạn nạn.

Còn người khéo chăn bò nước Ma-kiệt-đề không ngu muội, không mê mờ, có trí tuệ, có phương pháp, là chỉ cho đức Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác. Như người chăn bò quán sát kỹ bờ bên này, quán sát kỹ bờ bên kia để lùa bò qua sông, đến thung lũng bằng phẳng rộng rãi thì trước tiên phải lùa những con bò lớn có khả năng làm đầu đàn để chặn ngang dòng nước đang chảy xiết, an ổn qua bờ kia. Cũng vậy, hàng đệ tử của Ta có khả năng diệt sạch các lậu... (cho đến) tự biết không còn tái sanh, cắt ngang dòng tham dục thế gian của Ác ma, an ổn vượt qua dòng sanh tử, đến được bờ kia.

Như người khéo chăn bò nước Ma-kiệt-đề, tuần tự ở lần thứ hai, sẽ lùa những con bò trẻ sung sức, cắt ngang dòng nước mà qua. Cũng vậy, các hàng đệ tử của Ta đoạn tận năm hạ phần kiết sử, chứng quả A-na-hàm, không thọ sanh trở lại cõi này nữa, đồng thời cũng cắt đứt dòng tham dục của Ác ma, an ổn vượt qua dòng sanh tử, đến được bờ kia.

Như người khéo chăn bò nước Ma-kiệt-đề, tiếp theo ở lần thứ ba, sẽ lùa bầy bò nhỏ yếu theo phía dưới dòng và cũng vượt qua sông được an ổn. Cũng vậy, hàng đệ tử của Ta đã đoạn ba kiết sử, giảm thiểu tham, sân, si, chứng quả Tư-đà-hàm, chỉ còn trở lại cõi này một lần nữa là chấm dứt khổ đau, cắt ngang dòng tham dục của Ác ma, an ổn vượt qua dòng sanh tử, để sang bờ kia.

Như người khéo chăn bò ở nước Ma-kiệt-đề có thể đưa những con bê mới sanh đang còn theo mẹ chúng, vượt sông an ổn. Cũng vậy, hàng đệ tử của Ta đã đoạn trừ ba kiết sử, chứng quả Tu-đà-hoàn, không còn rơi vào đường ác, quyết định hướng thẳng đến Vô thượng Chánh giác, chỉ còn bảy lần tái sanh vào cõi trời, cõi người là vượt thoát khổ đau, cắt đứt dòng tham dục của Ác ma, an ổn vượt qua dòng sanh tử, đến bên bờ kia.

Bấy giờ, Thế Tôn liền nói kệ:

Đời này và đời sau,
Bậc trí khéo hiển bày,
Điều ma cầu, chưa được,
Thậm chí cả tử ma.
Bậc trí biết tất cả,
Bằng Phật trí tròn đầy,
Cắt đứt các dòng ma,
Phá trừ làm tan rã.
Khai mở cửa giải thoát,
Hiển bày đạo chánh chân,
Tâm thường đầy hân hoan,
Đạt đến nơi an ổn.

Đức Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy đều hoan hỷ phụng hành.

 

Chú thích:

[1] Tựa đề đặt theo nội dung kinh. Tạp. 雜 (T.02. 0099.1248. 0342a22). Tham chiếu: M. 34, Cūḷagopālaka Sutta (Tiểu kinh người chăn bò); Tăng. 增 (T.02. 0125.43.6. 0761b14).

 

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.