Viện Nghiên Cứu Phật Học

 

QUYỂN 46

1224. ĐẠI HỘI CÚNG DƯỜNG (1)[1]

 

Tôi nghe như vầy:

Một thời, đức Phật ngụ trong núi Kỳ-xà quật, thuộc thành Vương Xá.

Bấy giờ, dân chúng khắp thành Vương Xá mở hội bố thí lớn, mời hết các đạo giáo khác nhau đến cúng dường.

Khi ấy, có những người tin theo ngoại đạo Giá-la-ca[2] thì nghĩ rằng: “Nay ta sẽ mời thiên đạo Giá-la-ca để gieo phước điền trước.” Hoặc có người tin theo ngoại đạo xuất gia, có người tin theo đạo Ni-kiền tử, có người tin theo đệ tử của đạo trưởng lão,[3] có người tin theo đạo thờ lửa, hoặc có người tin theo chúng Tăng đệ tử Phật thì nghĩ rằng: “Hôm nay sẽ thỉnh Phật và chúng Tăng để gieo phước điền trước.”

Bấy giờ, trời Đế-thích nghĩ: “Chớ để cho dân chúng thuộc thành Vương Xá từ bỏ Phật và chúng Tăng để tin phụng và cầu phước nơi những đạo giáo khác. Ta hãy nhanh chóng vì người dân thành Vương Xá mà kiến lập phước điền.” Thiên Đế-thích liền biến thành một đại Bà-la-môn tướng mạo oai nghiêm, cưỡi xe ngựa trắng, có các thiếu niên Bà-la-môn cầm dù lọng vàng theo sau hộ tống đi đến thành Vương Xá và dạo khắp nơi trong hội chúng. Lúc này, tất cả nam nữ thành Vương Xá đều nghĩ rằng: “Phải xem vị Bà-la-môn này tin phụng theo đạo giáo nào thì ta sẽ theo đó để cúng dường, đó là ruộng phước tốt nhất.”

Thiên Đế-thích biết rõ suy nghĩ của tất cả dân chúng thuộc thành Vương Xá, liền cho xe dẫn đầu, đi theo đường tắt đến núi Kỳ-xà quật. Đến bên ngoài cửa núi, Thiên Đế-thích cởi bỏ năm loại nghi trượng rồi đi đến chỗ Phật, đảnh lễ sát chân Ngài rồi ngồi sang một bên và nói kệ:

Khéo phân biệt, chỉ bày,
Các pháp đến bờ kia,
Vượt qua mọi sợ hãi,
Con kính lễ Cù-đàm.
Dân chúng lập đại hội,
Muốn cầu công đức lớn,
Nhà nhà mở hội thí,
Thường cầu quả hữu dư,
Xin Ngài nói ruộng phước,
Giúp người thí được quả.

Với câu hỏi vua trời, Đế-thích, Đại Tự Tại, ở núi Kỳ-xà quật, Đại sư trả lời rằng:[4]

Dân chúng lập đại hội,
Muốn cầu công đức lớn,
Nhà nhà mở hội thí,
Thường cầu quả hữu dư.
Nay nói về phước điền,
Thí chỗ nào quả lớn,
Chánh hướng gồm có bốn,
Trụ Thánh quả cũng bốn.
Gọi đó ruộng phước Tăng,
Minh, hạnh, định đầy đủ,
Ruộng phước Tăng rộng lớn,
Vô lượng hơn biển cả.
Đệ tử đấng Điều Ngự,
Hiển bày rõ Chánh pháp,
Khéo cúng dường nơi đây,
Cúng Tăng ruộng phước lành.
Gieo ruộng phước nơi Tăng,
Phật dạy, đây quả lớn,
Vì Tăng lìa ngũ cái,
Thanh tịnh, đáng ngợi khen.
Cúng Tăng, phước tối thượng,
Cúng ít được lợi nhiều,
Vậy nên khắp mọi người,
Hãy gieo phước nơi Tăng.
Lại được pháp thắng diệu,
Minh, hạnh, định tương ưng,
Cúng Tăng quý báu này,
Tâm thí chủ hoan hỷ.
Sanh khởi ba thứ tâm,
Thí y phục, ẩm thực,
Lìa gươm nhọn trần cấu,
Vượt qua các đường dữ.
Đích thân đi mời thỉnh,
Tự tay cúng bình đẳng,
Lợi mình và lợi người,
Thí này được lợi lớn.
Người trí thí như vậy,
Tâm thanh tịnh giải thoát,
Thí an lạc không tội,
Nương trí sanh cõi kia.

Đế-thích nghe Phật dạy xong, hoan hỷ và tùy hỷ, đảnh lễ Phật rồi biến mất.

Bấy giờ, dân chúng thành Vương Xá cùng đứng dậy, sửa lại y phục, đảnh lễ đức Phật và chắp tay thưa:

Kính bạch Thế Tôn! Cúi xin Thế Tôn và chúng Tăng nhận sự cúng dường của chúng con.

Thế Tôn im lặng nhận lời. Khi ấy, người dân thành Vương Xá biết Thế Tôn đã im lặng nhận lời mời rồi, họ cùng đảnh lễ Phật và quay trở về. Khi đã về đến nơi đại hội, họ chuẩn bị thức ăn thức uống, thiết trí bàn ghế. Sáng sớm hôm sau, họ sai người đến bạch Phật:

Đã đến giờ! Xin Thế Tôn biết cho.

Bấy giờ, Thế Tôn và chúng Tăng đắp y, ôm bát đến chỗ đại hội rồi trải tòa ngồi trước đại chúng. Người dân thành Vương Xá biết Phật đã an tọa, liền đích thân dâng cúng nhiều loại thức ăn thơm ngon, tinh khiết. Biết rõ Phật và chúng Tăng thọ trai xong và đã rửa bát, súc miệng rồi, họ liền trở về chỗ ngồi để nghe Phật thuyết pháp. Bấy giờ Thế Tôn thuyết pháp cho dân chúng thành Vương Xá. Sau khi mở bày, dạy bảo, khích lệ và khiến họ hoan hỷ xong,[9] Ngài đứng dậy ra đi.

 

Chú thích:

[1] Tựa đề đặt theo nội dung kinh. Tạp. 雜 (T.02. 0099.1224. 0334a05). Tham chiếu: Tạp. 雜 (T.02. 0099.1225. 0334c05); Biệt Tạp. 别雜 (T.02. 0100.52. 0390b27); Tăng. 增 (T.02. 0125.13.6. 0575a05); S. 11.16 - I. 233.

[2] Giá-la-ca (遮羅迦). Có hai lý giải về trường hợp này. Thứ nhất, Giá-la-ca được dịch từ Caraka chỉ cho các vị tu sĩ du hành đây đó. Thứ hai, theo S. 11.16 - I. 233, Giá-la-ca được dịch từ chữ Yājaka, là người lo việc tế tự, là thầy tư tế.

[3] Nguyên tác: Lão đệ tử (老弟子).

[4] Bốn câu này không thuộc kệ, mặc dù bản Hán hành văn như thể kệ.

[5] Chánh hướng giả hữu tứ (正向者有四) chỉ cho những hành giả đang hướng về 4 quả Thánh, gồm: hướng Tu-đà-hoàn (須陀洹向), hướng Tư-đà-hàm (斯陀含向), hướng A-na-hàm (阿那含向) và hướng A-la-hán (阿羅漢向).

[6] Tứ Thánh trụ ư quả (四聖住於果) chỉ cho các bậc Thánh đã an trú 4 Thánh quả, gồm: Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm và A-la-hán.

[7] Ngũ cái (五蓋, pañca nīvaraṇā): Năm thứ chướng ngại ngăn che tâm, gồm: tham dục (貪欲, kāmarāga), sân khuể (瞋恚, vyāpāda), thụy miên (睡眠, thinamiddha), trạo cử (掉舉, uddhacca) và nghi (疑, vicikicchā).

[8] Tam chủng tâm (三種心): Ba trạng thái của tâm trước khi bố thí, trong khi bố thí và sau khi bố thí đều hoan hỷ. Xem thêm “tam chủng tế tự” (三種祭祀) trong Cứu-la-đàn-đầu kinh 究羅檀頭經 (T.01. 0001.23. 0097b06).

[9] Nguyên tác: Thị, giáo, chiếu, hỷ (示, 教, 照, 喜). Xem chú thích 24, kinh số 92, quyển 4, tr. 105; Tạp. 雜 (T.02. 0099.92. 0023c18).

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.