Tam tạng Thánh điển PGVN 21 » Tam tạng Phật giáo Bộ phái 05 »
TRUNG TÂM DỊCH THUẬT TRÍ TỊNH
QUYỂN 45
Tôi nghe như vầy:
Một thời, đức Phật ngụ tại Trúc Lâm, vườn Ca-lan-đà, thuộc thành Vương Xá.
Bấy giờ, Tôn giả Ni-câu-luật Tưởng[2] ở trong vùng hoang vắng, là nơi sinh sống của các loài cầm thú. Khi ấy, Tôn giả Bà-kỳ-xá xuất gia chưa bao lâu nhưng đã sống đúng với oai nghi, dù phải nương vào thôn xóm, thành ấp. Mỗi buổi sáng, Bà-kỳ-xá đắp y, ôm bát vào thôn xóm, thành ấp khất thực, khéo bảo hộ tự thân, giữ gìn các căn, nhiếp tâm buộc niệm. Thọ thực xong, Tôn giả Bà-kỳ-xá trở về trụ xứ cất y bát, rửa chân rồi vào thất ngồi thiền, chốc lát sau thì xả thiền. Tuy không đắm trước vào việc khất thực nhưng Bà-kỳ-xá không được Tôn giả Ni-câu-luật Tưởng tùy thời chỉ dạy, giáo giới, nên tâm không an lạc, giống như đang sống trong chốn thâm sâu, bị vây kín chung quanh.
Bấy giờ, Tôn giả Bà-kỳ-xá suy nghĩ: “Ta ở đây không được lợi ích gì, khó được chứ không dễ được. Ta không được tùy thời chỉ dạy, giáo giới, nên tâm không an lạc, giống như đang sống trong chốn thâm sâu, bị vây kín chung quanh. Nay ta hãy nói kệ khen ngợi sự nhàm chán của mình”, liền nói kệ:
Từ bỏ vui, không vui,
Và tất cả lòng tham,
Không tạo rừng khát vọng,
Lìa nhiễm, xứng Tỳ-kheo.
Theo ý thức suy tưởng,[3]
Rong ruổi trong thế gian,
Che đậy ác, bất thiện,
Chưa thể cởi lớp da.
Tâm vui với nhiễm ô,
Thì không xứng Tỳ-kheo,
Bị hữu dư trói buộc,
Nơi thấy, nghe, rõ biết.
Với người đã đạt ngộ,
Sẽ không còn nhiễm trước,
Người đã không còn nhiễm,
Chính là đấng Mâu-ni.
Đại địa và hư không,
Các hình sắc thế gian,
Đều là pháp biến diệt,
Tịch lặng tự quyết định.
Pháp khí tu tập lâu,
Thành tựu được chánh định,[4]
Không xúc, không dối trá,
Tâm kia rất chuyên chú,
Bậc Thánh đã Niết-bàn,
Chánh niệm chờ diệt độ.
Khi Tôn giả nói kệ bày tỏ sự nhàm chán, xa lìa của mình, tâm liền tự khai ngộ. Khi đã khai ngộ đối với những thấy biết không vui rồi, tâm thầy ấy an trụ trong hân hoan.
[1] Tựa đề đặt theo nội dung kinh. Tạp. 雜 (T.02. 0099.1213. 0330c20). Tham chiếu: Biệt Tạp. 别雜 (T.02. 0100.229. 0457c29); S. 8.2 - I. 186.
[2] Bản Tống, Nguyên, Minh ghi là Tưởng (想), tương đồng với nghĩa của chữ Kappa. Trong Tạp. 雜 (T.02. 0099.1221. 0333a16) cũng ghi Ni-câu-luật Tưởng (尼拘律想, Nigrodha Kappa), tên riêng của vị Tỳ-kheo vừa được phiên âm Ni-câu-luật (尼拘律, Nigrodha) vừa được dịch nghĩa Tưởng (想, Kappa), là vị thầy tiếp độ (upajjhāya) của Tôn giả Bà-kỳ-xá (婆耆舍, Vangīsa).
[3] Nguyên tác: Ư lục giác tâm tưởng (於六覺心想). Tham chiếu: Biệt Tạp. 别雜 (T.02. 0100.229. 458a12): Đệ lục ý xuất giác (第六意出覺).
[4] Nguyên tác: Tam-ma-đề (三摩提, samādhi).
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.