Viện Nghiên Cứu Phật Học

Tam tạng Thánh điển PGVN 20 » Tam tạng Phật giáo Bộ phái 04 » 

KINH TẠP A-HÀM
(雜阿含經)

Hòa Thượng THÍCH THIỆN SIÊU
Hòa Thượng THÍCH THANH TỪ

Mục Lục

KINH SỐ 1212

 

Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật trú tại thành Vương Xá, trong Vườn Trúc Ca-lan-đà.
Bấy giờ, Phật kiết hạ an cư cùng với năm trăm Tỳ-kheo đều là bậc A-la-hán sạch hết phiền não, việc làm đã xong, quăng bỏ gánh nặng, dứt trừ trói buộc, chánh trí, tâm thiện giải thoát, chỉ trừ Tôn giả A-nan. Thế Tôn thọ ký Tôn giả A-nan hiện pháp sẽ đắc vô tri chứng.
Bấy giờ vào ngày mười lăm, nguyệt thực, Thế Tôn trải tòa ngồi trước đại chúng, và bảo các Tỳ-kheo:
– Ta là Bà-la-môn đắc Bát-niết-bàn, giữ gìn thân cuối cùng, làm Đại Y Sư, nhổ những mũi nhọn. Ta là Bà-la-môn đắc Bát-niết-bàn, giữ gìn thân sau cùng này làm bậc Vô thượng Y Sư, nhổ các gai nhọn. Các thầy là con, từ miệng Ta sanh ra, từ pháp hóa sanh, được gia tài Pháp. Hãy nhớ thọ trì, chớ để cho thân, khẩu, ý của Ta có việc đáng quở trách.
Lúc ấy, Tôn giả Xá-lợi-phất ở giữa đại chúng đứng dậy, sửa lại y phục, đảnh lễ, chắp tay bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Thế Tôn vừa nói rằng: “Ta là Bà-la-môn đắc Bát-niết-bàn, giữ gìn thân cuối cùng, làm Đại Y Sư, nhổ hết mũi nhọn. Các thầy là con Ta, từ miệng Ta sanh ra, từ pháp hóa sanh, được gia tài Phật pháp. Hãy nhớ thọ trì, chớ để cho thân, khẩu, ý của Ta có việc đáng quở trách.” Chúng con không thấy thân, khẩu, ý của Thế Tôn có điều gì đáng hiềm trách. Vì sao? Vì Thế Tôn đối với những người không thể điều phục khiến điều phục, người không tịch tĩnh khiến họ tịch tĩnh, người không an nghỉ, khiến họ an nghỉ, người không Bát-niết-bàn khiến họ Bát-niết-bàn. Như Lai biết đạo, Như Lai nói đạo, Như Lai hướng về đạo rồi sau đó Thanh văn thành tựu, theo đạo, tôn sùng đạo, vâng lãnh lời dạy của Đạo Sư. Đúng như những lời chỉ dạy ấy, chơn chánh, hướng đến an lạc, pháp lành chân thật. Đối với Thế Tôn con không thấy thân, khẩu, ý của Ngài có việc gì đáng hiềm trách. Nay đối trước Thế Tôn, xin Ngài chỉ cho ba tội thấy, nghe, nghi, hoặc thân, khẩu, ý có điều gì đáng hiềm trách.
Phật bảo Xá-lợi-phất:
– Ta không thấy thầy có ba tội thấy, nghe, nghi và thân, khẩu, ý có điều gì đáng hiềm trách. Vì sao? Vì thầy trì giới, đa văn, thiểu dục tri túc, tu hạnh viễn ly, tinh cần phương tiện, chánh niệm, chánh thọ, trí tuệ lanh lợi, trí tuệ sáng suốt, trí tuệ giải thoát, trí tuệ viễn ly, trí tuệ rộng lớn, trí tuệ sâu xa, trí tuệ không ai bằng, thành tựu trí tuệ chân thật, khai thị, chỉ giáo rõ ràng, hoan hỷ tán thán, vì chúng sanh thuyết pháp chưa từng mỏi mệt. Ví như thái tử lớn nhất của Chuyển Luân Thánh Vương đáng thọ lễ quán đảnh, tuy chưa làm lễ quán đảnh mà đã ở vào nghi pháp quán đảnh như pháp của vua cha, những điều gì vua cha đã chuyển cũng sẽ y theo đó chuyển. Nay thầy cũng như thế, là trưởng tử của Ta, gần được nhận lễ quán đảnh nhưng chưa quán đảnh mà đã ở vào nghi pháp quán đảnh. Đối với pháp luân của Ta đã chuyển nói, thầy cũng y theo đó chuyển, vắng lặng, không còn khởi các lậu, tâm thiện giải thoát. Cũng thế, đối với Xá-lợi-phất, Ta không thấy có ba tội thấy, nghe, nghi và thân, khẩu, ý có điều gì hiềm trách.
Tôn giả Xá-lợi-phất bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Con không có tội thấy, nghe, nghi và thân, khẩu, ý không có điều gì đáng hiềm trách; vậy năm trăm Tỳ-kheo này có được không tội thấy, nghe, nghi và thân, khẩu, ý có điều gì đáng hiềm trách chăng?
Phật đáp:
– Đối với năm trăm Tỳ-kheo này, Ta cũng không thấy tội thấy, nghe, nghi và thân, khẩu, ý có điều gì đáng hiềm trách. Vì sao? Vì năm trăm Tỳ-kheo này đều là A-la-hán, sạch hết phiền não, việc làm đã xong, bỏ được gánh nặng, đoạn sạch hết các kiết sử, chánh trí, tâm thiện giải thoát. Trừ một Tỳ-kheo, đó là A-nan, nhưng Ta thọ ký cho A-nan hiện đời sẽ đắc vô tri chứng. Do đó, đối với năm trăm Tỳ-kheo, Ta không thấy ai có tội thấy, nghe, nghi và thân, khẩu, ý có điều gì đáng hiềm trách.
Tôn giả Xá-lợi-phất bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Năm trăm Tỳ-kheo này đã không có tội thấy, nghe, nghi và thân, khẩu, ý có điều gì đáng hiềm trách hết; vậy trong đây có bao nhiêu Tỳ-kheo được Tam minh? Có bao nhiêu Tỳ-kheo được Câu giải thoát? Có bao nhiêu Tỳ-kheo được Tuệ giải thoát?
Phật đáp:
– Trong năm trăm Tỳ-kheo này, chín mươi Tỳ-kheo được Tam minh, chín mươi Tỳ-kheo được Câu giải thoát, còn lại là được Tuệ giải thoát. Này Xá-lợi-phất! Những Tỳ-kheo này không còn dao động, chân thật kiên cố, không phải chỉ bên ngoài. Khi ấy, Tôn giả Bà-kỳ-xá ở giữa hội chúng khởi nghĩ: “Ta sẽ đến trước Thế Tôn và đại chúng nói kệ tán thán”, nghĩ như thế xong liền đứng dậy sửa lại y phục, bày vai phải, lễ Phật và chắp tay thưa:
– Bạch Thế Tôn! Con có điều muốn nói. Bạch Thiện Thệ! Con có điều muốn nói.
Phật bảo:
– Tùy thầy muốn nói.
Bà-kỳ-xá nói kệ:

Ngày mười lăm thanh tịnh,
Đại chúng năm trăm người,
Đoạn dứt tất cả kiết,
Đại tiên sạch phiền não,
Thanh tịnh gần gũi nhau,
Thanh tịnh rộng giải thoát,
Không còn thọ các hữu,
Sanh tử đã dứt hẳn,
Việc đáng làm đã làm,
Sạch hết tất cả lậu,
Năm cái đã đoạn trừ,
|Nhổ cội gốc gai ái,
Sư tử không sợ hãi,
Lìa tất cả hữu dư,
Hại các hữu oán kết,
Vượt qua cả hữu dư,
Các oán địch hữu lậu,
Thảy đều đã tiềm phục,
Giống như Chuyển Luân Vương,
Bảo bọc các quyến thuộc,
Tâm từ rộng tuyên hóa,
Mọi loài đều kính vâng, 
Hay hàng phục ma oán,
Là Đạo Sư vô thượng,
Tâm kính tín phụng thờ,
Tam minh, lão, tử diệt,
Làm chơn tử của pháp,
Không lo lắng dao động
Nhổ sạch gai phiền não,
Lễ con dòng mặt trời.

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

 

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.