Tam tạng Thánh điển PGVN 20 » Tam tạng Phật giáo Bộ phái 04 »
Hòa Thượng THÍCH THIỆN SIÊU
Hòa Thượng THÍCH THANH TỪ
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật trú tại nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, trong vườn Cấp Cô Độc.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
– Ví như có một con sông tro, bờ phía Nam rất nóng, nhiều gai nhọn và tối tăm, trong sông có nhiều tội nhân trôi dạt theo dòng. Trong đó có một người thông minh trí tuệ, ưa vui chán khổ, ham sống sợ chết, khởi nghĩ rằng: “Hiện tại ta do duyên gì mà ở trong sông tro này, phía Nam thì nóng bức lại nhiều gai nhọn và tối tăm, ta lại bị trôi dạt như vậy? Bây giờ ta sẽ dùng chân tay làm phương tiện bơi ngược dòng đi lên, dần dần ta có thể thấy được chút ánh sáng.” Người ấy thầm nghĩ như thế rồi tức thì thấy được chút ánh sáng. Do đó, người ấy hăng say vận dụng tay chân hết sức bơi lên và thấy được đất bằng, bèn leo lên đứng trên đất đó quan sát chung quanh, thấy một ngọn núi đá lớn vững chắc, không hang ổ, không nứt bể, liền leo lên ngọn núi đó đứng nhìn và thấy được ao nước bát phần trong xanh mát mẻ. Nước ấy có tám đặc tính: Mát lạnh, nhẹ nhàng, êm dịu, thơm tho, trong xanh, uống không bị nghẹn cổ, uống vào thì thân thể được khỏe mạnh an lạc. Người ấy liền bước xuống uống hoặc tắm, và được xa lìa nóng bức. Sau đó, người ấy leo lên một ngọn núi lớn và gặp bảy loài hoa đẹp, đó là hoa ưu-bát-la, hoa bát-đàm-ma, hoa câu-mâu-đầu, hoa phân-đà-lợi, hoa tu-kiên-đề, hoa di-lu-đầu-kiên-đề, hoa a-đề-mục-đa, hương thơm ngào ngạt. Rồi người ấy lại leo lên núi đá thấy một tòa nhà có bốn bậc cấp liền ngồi trên ấy thì thấy năm tấm màn rủ xuống che lại. Người ấy liền vén màn vào bên trong ngồi ngay thẳng, thấy đầy đủ gối, mền, rải hoa cùng khắp, trang nghiêm đẹp đẽ. Người ấy tự do ngồi nằm, gió mát bốn bề, thân thể an ổn.
Người ấy ngồi ngay thẳng dưới rừng cây cao, cất lớn tiếng xướng:
“Hỡi các chúng sanh, các Hiền chánh sĩ trong sông tro! Con sông này bờ phía Nam nóng bức, gai góc tối tăm. Quý vị hãy nên tìm đường để ra khỏi con sông này.”
Trong đó có người nghe được âm thanh này, nương theo tiếng hỏi lại:
“Ra hướng nào? Theo chỗ nào ra?”
Trong đó lại có người nói:
“Người đây cần phải hỏi chỗ nào ra được. Người kia có lớn tiếng kêu gọi, họ cũng không tự biết, không thấy chỗ nào ra được, người đó cũng sẽ ở lại sông tro này, phía Nam nóng bức, gai góc tối tăm, cứ theo dòng trôi xuống. Chớ hỏi kia làm gì!”
Như thế, Tỳ-kheo, Ta sẽ giải thích ví dụ này. Tro chỉ cho ba ác giác bất thiện. Những gì là ba? Đó là dục giác, sân giác và hại giác. Sông chỉ cho ba ái: Dục ái, sắc ái và vô sắc ái. Bờ phía Nam rất nóng bức chỉ cho nội ngoại sáu nhập xứ. Nhiều gai nhọn chỉ cho ngũ dục. Chỗ tối tăm là chỉ cho vô minh che đậy tuệ nhãn. Chúng tội nhân chỉ cho phàm phu ngu si. Dòng là chỉ sông sanh tử. Trong đó có người thông minh trí tuệ là chỉ cho đại Bồ-tát. Dùng tay chân làm phương tiện bơi ngược dòng là chỉ cho tinh cần tu học. Lóe thấy một chút ánh sáng là được pháp nhãn. Gặp được đất bằng là chỉ cho trì giới. Quan sát bốn phương là chỉ cho thấy được bốn chân đế. Núi đá lớn là chỉ cho chánh kiến. Nước bát phần là chỉ cho bát chánh đạo. Bảy loài hoa là chỉ cho bảy giác phần. Nhà bốn bực cấp là chỉ cho bốn như ý túc. Năm trụ màn là chỉ cho năm căn: Tín, tấn, niệm, định, tuệ. Thân ngồi ngay thẳng là chỉ cho Vô dư Niết-bàn. Rải hoa cùng khắp là chỉ cho các thiền định, giải thoát, tam-muội chánh thọ. Tự do ngồi nằm là chỉ cho Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác. Gió thổi bốn bề là chỉ cho bốn tâm tăng trưởng thấy pháp an lạc. Cất tiếng kêu gọi là chỉ cho chuyển pháp luân. Kia có người hỏi: “Chư Hiền chánh sĩ đi chỗ nào, ra chỗ nào?”, là chỉ cho Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên và các Hiền thánh Tỳ-kheo. Ở trong đó có người nói: “Anh có hỏi thì người kia cũng không biết, không thấy có chỗ ra”, là chỉ cho họ cũng sẽ còn ở sông tro này. Bờ phía Nam nóng bức, nhiều gai nhọn và chỗ tối tăm theo dòng trôi xuống là chỉ cho lục sư ngoại đạo tà kiến. Đó là Phú-lan-na Ca-diếp, Mạt-già-lê-cù-xá-lê tử, Tán-xà-la-tỳ-la-chi tử, A-kỳ-đa-chỉ-xá-khâm-bà-la, Ca-câu-la-ca-đàn-diên, Ni-kiền-liên-đà-xà-đề, Phất-đa-la và những người tà kiến khác.
Như thế, Tỳ-kheo, Đại sư vì các Thanh văn làm những việc đáng làm, nay Ta đã làm xong. Bây giờ các thầy phải làm những việc đáng làm như Ta đã nói trong Kinh khạp đựng rắn độc.
Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.