Viện Nghiên Cứu Phật Học

Tam tạng Thánh điển PGVN 20 » Tam tạng Phật giáo Bộ phái 04 » 

KINH TẠP A-HÀM
(雜阿含經)

Hòa Thượng THÍCH THIỆN SIÊU
Hòa Thượng THÍCH THANH TỪ

Mục Lục

KINH SỐ 1175

 

Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật trú tại nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, trong vườn Cấp Cô Độc.
Khi ấy, có Tỳ-kheo ngồi thiền tại chỗ vắng, khởi nghĩ rằng: “Tỳ-kheo thấy thế nào, biết thế nào để khiến cho cái thấy của mình được thanh tịnh?” Suy nghĩ như thế rồi Tỳ-kheo liền đi đến chỗ các Tỳ-kheo thưa rằng:
– Thưa các thầy Tỳ-kheo! Biết thế nào, thấy thế nào để khiến cho cái thấy của mình được thanh tịnh?
Các Tỳ-kheo đáp:
– Thưa Tôn giả! Đối với sáu xúc nhập xứ phải biết như thật tập, diệt, vị, hoạn, ly. Biết như thế, thấy như thế thì cái thấy được thanh tịnh.
Tỳ-kheo này nghe Tỳ-kheo kia nói như thế thì tâm không hoan hỷ, bèn đi đến Tỳ-kheo khác hỏi:
– Biết thế nào, thấy thế nào để khiến cho cái thấy của mình được thanh tịnh?
Tỳ-kheo ấy đáp:
– Đối với sáu giới phải biết như thật tập, diệt, vị, hoạn, ly. Tỳ-kheo biết như thế, thấy như thế thì cái thấy được thanh tịnh.
Tỳ-kheo này nghe vị ấy nói như thế, tâm cũng không hoan hỷ, lại đến Tỳ-kheo khác nữa, hỏi:
– Biết thế nào, thấy thế nào để khiến cho cái thấy của mình được thanh tịnh?
Tỳ-kheo ấy đáp:
– Đối với năm thọ ấm phải quán sát như bệnh tật, như ung nhọt, như gai nhọn, như giết hại, vô thường, khổ, không, vô ngã. Khởi cái biết như thế, thấy như thế thì cái thấy được thanh tịnh.
Tỳ-kheo này nghe nói vậy tâm cũng không hoan hỷ, bèn đi đến chỗ Phật, cúi đầu lễ chân Phật, rồi lui ngồi một bên, bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Con một mình ở chỗ vắng tư duy rằng: “Tỳ-kheo biết thế nào, thấy thế nào để khiến cho cái thấy của mình được thanh tịnh?” Sau khi nghĩ như thế, con đến hỏi các Tỳ-kheo khác ba chỗ đã nói, con nghe xong, nhưng không hoan hỷ, nên con đến Thế Tôn đem nghĩa này thưa hỏi: “Tỳ-kheo biết thế nào, thấy thế nào để khiến cho cái thấy của mình được thanh tịnh?”
Phật đáp:
– Vào thời quá khứ, có một người chưa từng thấy khẩn thú, bèn đến người đã từng thấy khẩn thú hỏi:
“Anh biết khẩn thú không?”
Đáp:
“Biết.”
Lại hỏi:
“Hình dạng thế nào?”
Đáp:
“Tôi thấy nó màu đen như cái cột bị cháy sém.”
Người này nghe nói khẩn thú màu đen như cái cột cháy sém thì không hoan hỷ, bèn đi đến người khác đã từng thấy khẩn thú và hỏi:
“Ông có biết khẩn thú không?”
Người kia đáp:
“Biết.”
Lại hỏi:
“Hình dạng của nó thế nào?”
Người từng thấy khẩn thú đáp:
“Sắc của nó màu đỏ, phơi bày ra như khúc thịt.”
Lúc người kia nói thấy khẩn thú như một khúc thịt bày ra, người này nghe như thế không hoan hỷ, bèn đi đến người đã từng thấy khẩn thú khác hỏi:
“Ông có biết khẩn thú không?”
Người kia đáp:
“Biết.”
Lại hỏi:
“Hình dạng thế nào?”
Đáp:
“Thân của nó rũ xuống sum suê như quả thi-lợi-sa.”
Người này nghe rồi tâm cũng không hoan hỷ, lại đi hỏi người khác nữa:
“Ông có biết khẩn thú không?”
Đáp:
“Biết.”
Lại hỏi:
“Hình dạng thế nào?”
Người kia trả lời:
“Nó màu xanh lá cây, lá trơn, dài rộng như cây ni-câu-lâu-đà.”
Người này nghe xong, tâm cũng không hoan hỷ, lại đi khắp nơi tìm những người thấy khẩn thú để hỏi thì họ đều trả lời theo cái thấy riêng của họ; do đó, không giống nhau. Cũng thế, nếu Tỳ-kheo một mình ở chỗ thanh vắng, chuyên tinh tư duy, sống không buông lung, nhờ pháp tư duy nên không khởi các lậu, tâm được giải thoát, và đã trả lời theo chỗ thấy của họ. Nay thầy nghe Ta nói ví dụ này, người trí nghe Ta nói ví dụ sẽ hiểu được nghĩa. Ví như có một nước ở biên giới khéo cai trị, có cửa thành vững chắc, đường sá bằng phẳng. Bốn cửa thành có bốn người canh gác, đều thông minh trí tuệ, kiểm soát sự qua lại. Trong thành có bốn con đường giao nhau, và có đặt một cái tòa cho vị thành chủ ngồi lên. Nếu có sứ giả từ phương Đông đến hỏi người giữ cửa: “Thành chủ ở đâu?” Người giữ cửa liền trả lời:
“Đang ngồi trên tòa, ở ngã tư đường, trong thành.”
Vị sứ kia liền đi đến chỗ vị thành chủ nhận lãnh những lời chỉ bảo rồi đi về. Những sứ giả từ Nam, Tây, Bắc đến cũng hỏi người giữ cửa: “Thành chủ ở đâu?” Những người giữ cửa đáp:
“Giữa ngã tư đường, trong thành.”
Các sứ giả liền đi đến chỗ vị thành chủ, nhận lời chỉ bảo rồi mỗi người trở về chỗ cũ của mình.
Phật bảo:
– Tỳ-kheo! Ta nói ví dụ này để nói lên ý nghĩa: Thành là dụ cho thân sắc thô tháo này... (Giống như kinh nói ví dụ cái khạp đựng rắn độc). Khéo trị thành quách cho vững chắc là chỉ cho chánh kiến. Đường sá bằng phẳng là sáu nội nhập xứ. Bốn cửa chỉ cho bốn thức trụ. Bốn người giữ cửa chỉ cho bốn niệm xứ. Thành chủ chỉ cho thức thọ ấm. Sứ giả là chánh quán. Nói lời đúng sự thật là bốn chân đế. Trở về bổn xứ là tám Thánh đạo.
Phật bảo:
– Tỳ-kheo! Nếu Đại sư vì đệ tử làm những việc đáng làm thì nay Ta đã làm xong, vì thương xót nên Ta đã nói,... (như kinh nói ví dụ về cái khạp đựng rắn độc).
Sau khi các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, chuyên cần tư duy, không dám buông lung, tiến tu Phạm hạnh,... không thọ thân sau, chứng A-la-hán.

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.