Viện Nghiên Cứu Phật Học

QUYỂN 42

1146. BỐN HẠNG NGƯỜI[1]

 

Tôi nghe như vầy:

Một thời, đức Phật ngụ tại vườn Cấp Cô Độc, trong rừng Kỳ-đà, thuộc nước Xá-vệ.

Khi ấy, Vua Ba-tư-nặc đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ sát chân Ngài rồi ngồi sang một bên và thưa:

Thế nào, bạch Thế Tôn? Người dòng Bà-la-môn qua đời rồi có sanh trở lại nhà Bà-la-môn của mình, hay sanh vào nhà Sát-lợi, Tỳ-xá, Thủ-đà-la?

Đức Phật đáp:

Này Đại vương! Đâu được như thế! Đại vương nên biết, có bốn hạng người. Là bốn hạng nào? Có hạng người từ tối vào tối, có hạng người từ tối ra sáng, có hạng người từ sáng vào tối và có hạng người từ sáng ra sáng.

Đại vương! Thế nào là hạng người từ tối vào tối? Nghĩa là có người sanh vào dòng thấp hèn, như sanh vào nhà Chiên-đà-la, nhà người săn bắn, bắt cá, chẻ tre, đẩy xe hoặc những nhà làm nghề hạ tiện khác, nghèo khổ, đoản mạng, hình thể tiều tụy, rồi lại học theo những nghề thấp kém, cũng lại bị những người hạ tiện sai khiến. Đây gọi là tối. Ở trong chỗ tối này, thân lại làm ác, miệng nói lời ác, ý nghĩ điều ác. Do nhân duyên này, khi qua đời sẽ sanh vào đường ác, rơi xuống địa ngục. Giống như có người từ mê vào mê, từ nhà xí vào nhà xí, lấy máu rửa máu, bỏ ác lấy ác, người từ tối vào tối cũng lại như vậy. Đó gọi là từ tối vào tối.

Thế nào là từ tối ra sáng? Nghĩa là có người sanh vào dòng thấp hèn... (cho đến) bị người khác sai làm những điều hèn hạ. Đây gọi là tối. Nhưng người ấy ở trong tối này, thân làm việc lành, miệng nói lời lành, ý nghĩ điều lành. Nhờ nhân duyên này, khi qua đời sẽ sanh vào đường lành, được sanh lên cõi trời. Ví như có người từ kiệu lên ngựa, từ ngựa lên voi, người từ tối ra sáng cũng lại như vậy. Đó gọi là từ tối ra sáng.

Thế nào là người từ sáng vào tối? Nghĩa là có người sanh vào dòng giàu sang cao quý như những nhà Sát-lợi, Bà-la-môn hoặc trưởng giả, là những nhà rất nhiều tiền của, nô tỳ, người làm công và thường nhóm họp thân quyến, bằng hữu, thân thể đoan chánh, thông minh trí tuệ. Đây gọi là sáng. Ở trong chỗ sáng này, người ấy thân làm việc ác, miệng nói lời ác, ý nghĩ điều ác. Do nhân duyên này, khi qua đời sẽ sanh vào đường ác, rơi xuống địa ngục. Ví như có người từ lầu cao xuống cưỡi voi lớn, từ voi xuống ngựa, từ ngựa xuống xe, từ xe xuống kiệu, từ kiệu xuống đất, từ đất rơi xuống hầm hố. Người từ sáng vào tối cũng lại như thế.

Thế nào là người từ sáng ra sáng? Nghĩa là có người sanh vào nhà giàu sang cao quý... (cho đến) hình tướng đoan nghiêm. Đây gọi là sáng. Ở trong chỗ sáng này, người ấy thân làm hạnh lành, miệng nói lời lành, ý nghĩ điều lành. Nhờ nhân duyên này, khi qua đời sẽ sanh vào đường lành, thọ thân cõi trời. Giống như có người từ lầu quán đến lầu quán... (cho đến) từ kiệu đến kiệu. Người từ sáng ra sáng cũng lại như thế. Đây gọi là từ sáng ra sáng.

Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ:

Người bần cùng khốn khổ,
Không niềm tin, sân hận,
Nghĩ điều ác, tham tiếc,
Si mê, không cung kính.
Gặp Sa-môn, Đạo sĩ,
Người trì giới, đa văn,
Chẳng ngợi khen, còn mắng,
Ngăn người cho và nhận.
Những hạng người như thế,
Đời này đến đời sau,
Sẽ rơi vào địa ngục,
Là từ tối vào tối.
Nếu có người nghèo cùng,
Tín tâm, ít sân hận,
Thường sanh tâm hổ thẹn,
Bố thí, lìa keo kiệt.
Gặp Sa-môn, Phạm chí,
Người trì giới, đa văn,
Đến thưa hỏi khiêm cung,
Tùy nghi khéo cúng dường.
Khuyên người nên bố thí,
Khen người cho và nhận,
Người tu hành như thế,
Đời này đến đời sau,
Sanh đường lành, cõi trời,
Là từ tối ra sáng.
Người giàu sang cao quý,
Bất tín, nhiều sân hận,
Tham tiếc, ác, ghét ganh,
Tà mê, không cung kính.
Gặp Sa-môn, Phạm chí,
Hủy báng, không khen ngợi,
Cản trở người bố thí,
Cấm ngăn người đến nhận.
Những người ác như thế,
Đời này đến đời sau,
Rơi vào khổ địa ngục,
Là từ sáng vào tối.
Nếu người giàu của cải,
Tín tâm, không sân hận,
Thường có tâm hổ thẹn,
Bố thí, lìa keo kiệt.
Gặp Sa-môn, Phạm chí,
Người đa văn, trì giới,
Nghinh tiếp và thưa hỏi,
Tùy nghi cấp vật dùng.
Khuyên người nên cúng dường,
Khen người cho và nhận,
Những người như thế đó,
Từ nay đến đời sau,
Sanh cõi trời Đao-lợi,
Là từ sáng ra sáng.

Đức Phật nói kinh này xong, Vua Ba-tư-nặc nghe lời Phật dạy, hoan hỷ và tùy hỷ, đảnh lễ rồi lui ra.

 

Chú thích:

[1] Tựa đề đặt theo nội dung kinh. Tạp. 雜 (T.02. 0099.1146. 0304b27). Tham chiếu: Biệt Tạp. 别雜

(T.02. 0100.69. 0398a01); Tứ nhân xuất hiện thế gian kinh 四人出現世間經 (T.02. 0127. 0834c03);

S. 3.21 - I. 209.

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.