Viện Nghiên Cứu Phật Học

Tam tạng Thánh điển PGVN 20 » Tam tạng Phật giáo Bộ phái 04 » 

KINH TẠP A-HÀM
(雜阿含經)

Hòa Thượng THÍCH THIỆN SIÊU
Hòa Thượng THÍCH THANH TỪ

Mục Lục

KINH SỐ 1144

 

Tôi nghe như vầy:
Một thời, Tôn giả Đại Ca-diếp và Tôn giả A-nan ở trong núi Kỳ-xà quật, thành Vương Xá. Sau khi Thế Tôn nhập Niết-bàn chưa bao lâu, gặp lúc mất mùa, đói kém nên đi khất thực rất khó khăn. Bấy giờ, chúng Tỳ-kheo trẻ tuổi đi theo Tôn giả A-nan không thể nhiếp hộ được các căn. Vì ăn uống không đủ nên từ đầu đêm đến cuối đêm không thể tinh cần tư duy thiền định, chỉ ưa thích ngủ nghỉ, tìm cầu lợi lộc, du hành ở nhân gian đến Nam Thiên Trúc, có ba mươi Tỳ-kheo trẻ tuổi xả giới, hoàn tục, chỉ còn lại mấy chú tiểu. Lúc ấy, Tôn giả A-nan đang du hành ở nước Nam Sơn, vì thấy đồ chúng còn ít nên Tôn giả trở lại Vương Xá cất y bát, rửa chân xong, rồi đi đến chỗ Tôn giả Đại Ca-diếp, cúi đầu lễ chân Tôn giả, rồi lui ngồi một bên. Tôn giả Đại Ca-diếp hỏi A-nan:
– Thầy từ đâu đến mà đồ chúng quá ít?
A-nan đáp:
– Từ nước Nam Sơn, du hành trong nhân gian, có ba mươi Tỳ-kheo trẻ tuổi xả giới, hoàn tục, đồ chúng còn lại phần nhiều là các chú tiểu.
Tôn giả Ca-diếp nói với Tôn giả A-nan rằng:
– Có mấy thứ phước lợi Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác đã biết, đã thấy, chế giới cho phép ba người trở lên cùng ăn chung?
Tôn giả A-nan đáp:
– Vì hai việc. Những gì là hai? Một là nhà nghèo ít của. Hai là những người ác lập bè đảng phá hoại nhau. Chớ để cho những người đó len lỏi vào trong chúng Tăng, mượn danh chúng Tăng làm chướng ngại đại chúng, phân làm hai phe hiềm khích, tranh đấu lẫn nhau.
Tôn giả Ca-diếp nói:
– Thầy biết nghĩa này, vì sao vào thời đói kém lại dẫn đồ chúng đệ tử nhiều niên thiếu du hành khất thực nước Nam Sơn, để cho ba mươi người xả giới, hoàn tục, chỉ còn lại đa số là các chú tiểu? A-nan! Đồ chúng của thầy giảm xuống như vậy thì thầy là đồng tử, vì không biết tính toán.
Tôn giả A-nan thưa:
– Thế nào, thưa Tôn giả Đại Ca-diếp, đầu tôi đã hai thứ tóc mà vẫn còn đồng tử ư?
Tôn giả Đại Ca-diếp nói:
– Ở thời buổi đói kém, thầy cùng với những đệ tử trẻ tuổi du hành trong nhân gian, lại để cho ba mươi người xả giới, hoàn tục, chỉ còn lại các chú tiểu. Chúng giảm lần không biết tính toán mà nói là Tăng chúng hoại. A-nan! Chúng của A-nan tan hết. A-nan! Thầy là đồng tử vì không biết tính toán.
Khi ấy, Tỳ-kheo-ni Đề-xá nghe Tôn giả Ca-diếp quở Tôn giả A-nan là đồng tử thì không bằng lòng, bèn thốt ra những lời khiếm nhã:
– Tại sao thầy Ca-diếp vốn là gốc ngoại đạo mà lại dám trách Tôn giả A-nan dung mạo đoan nghiêm là đồng tử?
Rồi bà đi phao tin cho cái danh đồng tử lan ra.
Tôn giả Ca-diếp dùng thiên nhĩ nghe được những lời nói khiếm nhã thốt ra từ miệng của Tỳ-kheo-ni Đề-xá. Tôn giả Ca-diếp nghe xong nói với Tôn giả A-nan rằng:
– Thầy có thấy Tỳ-kheo-ni Đề-xá tâm không vui, miệng thốt ra những lời nói khiếm nhã rằng: “Đại Ca-diếp gốc từ ngoại đạo mà dám quở trách A-nan dung mạo đoan nghiêm là đồng tử?”
Tôn giả A-nan đáp:
– Thưa Tôn giả Ca-diếp! Đối với chuyện này xin Tôn giả nhẫn chịu, mụ già ngu si không có trí tuệ đó.
Tôn giả Ca-diếp nói với Tôn giả A-nan:
– Ta từ khi xuất gia đến nay, ngoài Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác ra không biết đến thầy khác. Ta khi chưa xuất gia thường suy nghĩ đến sanh-giàbệnh-chết-ưu-bi-khổ-não. Biết là ở nhà thì công việc bận rộn, sanh nhiều não phiền, nếu xuất gia ở chỗ không nhà thì khó hơn người thế tục. Ở chỗ không nhà, một bề trong sạch, trọn cả cuộc đời thuần nhất, thanh tịnh, Phạm hạnh thanh bạch... Nên ta đã cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà-sa, chánh tín, không nhà, xuất gia học đạo, đem cái áo giá trị trăm ngàn lượng vàng cắt nhỏ từng mảnh may lại thành y Tăng-già-lê. Nếu ở thế gian, ta nghe có vị A-la-hán nào, nghe rồi liền theo vị ấy xuất gia. Sau khi ta xuất gia rồi, ở thành Vương Xá trong tụ lạc Na-la, chỗ tháp Đa Tử, ta gặp Thế Tôn, thân ngồi ngay thẳng, tướng tốt kỳ lạ, các căn vắng lặng, vô cùng tịch tĩnh sáng chói như núi vàng. Ta khi thấy rồi, nghĩ thế này: “Đây là thầy ta, đây là Thế Tôn, đây là A-la-hán, đây là bậc Đẳng Chánh Giác.” Ta bèn chí tâm chắp tay kính lễ bạch Phật:
“Ngài là thầy của con, con là đệ tử!”
Phật bảo ta rằng:
“Đúng vậy, Ca-diếp! Ta là thầy của ông, ông là đệ tử. Này Ca-diếp! Nay ông đã thành tựu tâm chân thật thanh tịnh, như thế là người đáng kính. Người mà không biết nói biết, không thấy nói thấy, thật chẳng phải là A-la-hán mà nhận là A-la-hán, thật chẳng phải Đẳng Chánh Giác mà nhận là Đẳng Chánh Giác, người ấy tự nhiên thân nát thành bảy phần. Này Ca-diếp! Ta nay biết nên nói biết, thấy nên nói thấy, thật là A-la-hán nói A-la-hán, thật là Đẳng Chánh Giác nói là Đẳng Chánh Giác. Này Ca-diếp! Ta nay có nhân duyên vì Thanh văn thuyết pháp, chẳng phải là không có nhân duyên, có y cứ chẳng phải là không có y cứ, có thần lực chẳng phải không có thần lực. Do đó, này Ca-diếp, nếu muốn nghe pháp phải học như thế, nếu muốn nghe pháp có lợi ích thì phải nhất tâm cung kính tôn trọng, lắng lòng nghe kỹ và phải nghĩ rằng: ‘Ta phải chơn chánh quán sát ngũ ấm sanh diệt, sáu xúc nhập xứ, tập, khởi, hoại, diệt; đối với bốn niệm xứ, chánh niệm lạc trụ; tu tập bảy giác phần, tám giải thoát, thân tác chứng.’ Vị ấy thường nghĩ thân này chưa từng đoạn dứt, xa lìa, không hổ thẹn, phải theo kịp Phạm hạnh và đạo đức của Đại sư, thường giữ tâm niệm, nên học tập như thế.”
Bấy giờ, Thế Tôn thuyết pháp khai thị, chỉ giáo, soi sáng làm cho ta vui mừng. Sau khi khai thị chỉ giáo, soi sáng làm cho ta vui mừng xong rồi Ngài đứng dậy đi, ta cũng đi theo về trụ xứ. Ta lấy cái áo giá trị trăm ngàn lượng vàng cắt ra may thành áo Tăng-già-lê, gấp bốn lại làm tòa ngồi. Thế Tôn biết ta chí tâm cầu đạo. Ta lấy cái áo ấy trải ra làm tọa cụ thỉnh Phật ngồi. Thế Tôn ngồi xuống, lấy tay sờ áo khen rằng:
“Ca-diếp! Áo này nhẹ mịn, mềm mại.”
Ta thưa:
“Dạ đúng vậy, thưa Thế Tôn! Áo này nhẹ mịn, mềm mại, xin Thế Tôn từ bi nhận lấy.”
Phật bảo:
“Thầy nên nhận lấy chiếc y phấn tảo của Ta thì Ta sẽ nhận y Tăng-già-lê của thầy.”
Phật liền tự tay lấy y phấn tảo trao cho ta, ta liền dâng y Tăng-già-lê cho Phật như thế. Ngài truyền dạy cho ta trong tám ngày để học pháp lãnh thọ, khi đi khất thực. Đến ngày thứ chín, ta đạt đến Vô học. Này A-nan! Nếu có ai đến hỏi thẳng: “Ai là pháp tử của Thế Tôn, từ miệng Phật sanh, từ pháp hóa sanh, được giao phó gia tài Phật pháp và các thiền định giải thoát, tam-muội chánh thọ?” thì phải đáp là ta, chính được nói riêng, giống như người con trưởng của Chuyển Luân Thánh Vương, phải dùng phép quán đảnh để an lập vương vị và hưởng ngũ dục của một vị vua, không còn dùng phương tiện cực khổ mà hưởng được tự nhiên. Ta cũng như thế, là pháp tử của Phật, từ miệng Phật sanh, từ pháp hóa sanh, được giao phó gia tài Phật pháp, thiền định, giải thoát, tam-muội chánh thọ, không cực khổ dùng phương tiện và tự nhiên được. Ví như voi báu của Chuyển Luân Thánh Vương cao bảy, tám khuỷu tay mà một lá đa-la có thể che rợp. Cũng vậy, trí lực thần thông của ta thành tựu có thể che rợp. Nếu có người nghi ngờ cảnh giới thần thông và trí chứng, ta có thể vì họ phân biệt, giải nói về Thiên nhãn, Thiên nhĩ, Tha tâm thông, Túc mạng trí, Sanh tử trí, tác chứng thông Lậu tận trí. Nếu có người nghi ngờ, ta có thể vì họ giải nói khiến họ được quyết định.
Tôn giả A-nan thưa:
– Đúng vậy, đúng vậy! Thưa Tôn giả Đại Ca-diếp! Như voi báu của Chuyển Luân Thánh Vương cao bảy tám khuỷu tay mà một lá đa-la có thể che rợp; Tôn giả Đại Ca-diếp cũng như thế, trí sáu thần thông có thể che rợp. Nếu người nghi ngờ về cảnh giới thần thông... lậu tận tác chứng trí thông thì Tôn giả Đại Cadiếp có thể vì họ giải thuyết khiến họ được quyết định: “Tôi luôn luôn kính tin tôn trọng Tôn giả Đại Ca-diếp.”
Vì có thần lực, đức độ lớn như thế nên khi Tôn giả Đại Ca-diếp nói những lời này, Tôn giả A-nan nghe xong, vui mừng lãnh thọ giữ gìn.

 

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.