Tam tạng Thánh điển PGVN 21 » Tam tạng Phật giáo Bộ phái 05 »
TRUNG TÂM DỊCH THUẬT TRÍ TỊNH
QUYỂN 41
Tôi nghe như vầy:
Một thời, đức Phật ngụ tại vườn Ni-câu-luật, thuộc nước Ca-tỳ-la-vệ.
Bấy giờ, có nhiều người họ Thích nhóm họp tại nhà luận nghị để cùng nhau bàn luận. Khi ấy, có người họ Thích nói với Thích Nan-đề:
Có lúc tôi được đến cung kính cúng dường Như Lai nhưng có lúc thì không thể. Có khi được gần gũi cúng dường các vị Tỳ-kheo quen biết nhưng có khi thì không thể gần gũi cúng dường. Lại nữa, tôi không biết những ưu-bà-tắc trí tuệ khi thấy các ưu-bà-tắc, ưu-bà-di trí tuệ khác bị tật bệnh khốn khổ thì phải thuyết pháp, giáo giới, giáo hóa cho họ thế nào? Bây giờ, chúng ta hãy đến chỗ Thế Tôn thưa hỏi nghĩa này rồi theo như những gì Thế Tôn dạy, chúng ta sẽ phụng hành theo.
Lúc đó, Nan-đề và những người họ Thích cùng nhau đi đến chỗ Phật, lạy sát chân Ngài rồi ngồi sang một bên và bạch:
Bạch Thế Tôn! Những người họ Thích chúng con tụ tập tại nhà luận nghị để luận bàn. Có người họ Thích đến nói với con rằng: “Này Nan-đề, chúng tôi có khi được đến cung kính cúng dường Như Lai nhưng có khi thì không thể. Có khi được gần gũi cúng dường các vị Tỳ-kheo quen biết nhưng có khi thì không thể. (Nói đầy đủ như trên, cho đến) như những gì Thế Tôn dạy chúng ta sẽ phụng hành theo.” Hôm nay, chúng con xin thỉnh vấn Thế Tôn: “Nếu một ưu-bà-tắc trí tuệ, khi thấy ưu-bà-tắc và ưu-bà-di trí tuệ khác bị bệnh tật khốn khổ nên thuyết pháp, giáo giới, giáo hóa cho họ thế nào?” Phật bảo Nan-đề:
Nếu ưu-bà-tắc có trí tuệ, muốn đến chỗ ưu-bà-tắc và ưu-bà-di trí tuệ khác đang bị tật bệnh khốn khổ thì phải đem ba pháp an tâm này mà truyền dạy cho họ, nên nói rằng: “Nhân giả! Hãy thành tựu niềm tin thanh tịnh không lay chuyển[2] đối với Phật, thành tựu niềm tin thanh tịnh không lay chuyển đối với Pháp và đối với Tăng.”
Sau khi đem ba pháp an tâm này truyền dạy xong, lại hỏi tiếp: “Nhân giả có quyến luyến cha mẹ không?” Nếu người kia có quyến luyến cha mẹ thì phải khuyên bảo để họ buông xả, nên nói như vầy: “Nếu Nhân giả quyến luyến cha mẹ mà được sống thì cũng nên quyến luyến. Đã không do quyến luyến mà được sống thì quyến luyến làm gì?”
Nếu người kia nói không còn quyến luyến cha mẹ thì nên khen ngợi và tùy hỷ, rồi hỏi thêm rằng: “Đối với vợ con, tôi tớ, tiền của và vật dụng, Nhân giả có quyến luyến không?” Nếu người kia nói có quyến luyến thì nên khuyên buông xả, như pháp buông xả sự quyến luyến cha mẹ. Nếu nói không quyến luyến thì nên khen ngợi và tùy hỷ, rồi hỏi tiếp: “Đối với năm dục thế gian, Nhân giả có luyến tiếc không?” Nếu họ nói luyến tiếc thì nên giải thích năm dục thế gian là ô uế, bất tịnh, bại hoại, hôi hám, không bằng năm dục thắng diệu cõi trời. Phải khuyên họ lìa bỏ năm dục thế gian mà cầu năm dục cõi trời. Nếu người kia nói tâm đã xa lìa năm dục thế gian, chỉ nghĩ đến năm dục thắng diệu cõi trời thì nên khen ngợi và tùy hỷ rồi lại nói với họ rằng: “Năm dục thắng diệu cõi trời cũng là pháp vô thường, khổ, không, là biến hoại. Chư thiên cõi trời có thân tướng thù thắng hơn năm dục cõi trời.” Nếu người kia nói không còn mong cầu dục ở cõi trời và chỉ nghĩ đến thân tướng của chư thiên thì lại khen ngợi và tùy hỷ rồi lại nói tiếp: “Do tham dục mà có thân, thân ấy là pháp vô thường, là pháp biến hoại, chỉ có sự an lạc của xuất ly, diệt tận các hành mới là Niết-bàn. Nhân giả nên lìa bỏ sự mê luyến thân năm dục cõi trời mà vui nơi Niết-bàn vắng lặng, là tối thượng, là thù thắng.”
Vị Thánh đệ tử kia nếu đã lìa bỏ sự mê luyến đối với thân năm dục cõi trời, chỉ vui với Niết-bàn thì nên khen ngợi và tùy hỷ.
Như vậy, này Nan-đề! Vị Thánh đệ tử nên tuần tự nhắc nhở, chỉ dạy, khiến cho họ được Niết-bàn tịch tĩnh,[3] giống như Tỳ-kheo sống một trăm tuổi được Niết-bàn giải thoát.
Đức Phật nói kinh này xong, Thích Nan-đề cùng mọi người nghe lời Phật dạy, hoan hỷ và tùy hỷ, liền đảnh lễ rồi lui ra.
[1] Tựa đề đặt theo nội dung kinh. Tạp. 雜 (T.02. 0099.1122. 0297c29). Tham chiếu: S. 55.54 - V. 408.
[2] Bất hoại tịnh (不壞淨, aveccappasāda). Xem chú thích 10, kinh số 344, quyển 14, tr. 397; Tạp. .02. 0099.344. 0094b02).
[3] Nguyên tác: Bất khởi (不起): Không náo động (指不出動), chỉ cho sự tịch tĩnh, thanh nhàn. Xem chú thích 37, kinh số 1114, quyển 40, tr. 1219; Tạp. 雜 (T.02. 0099.1114. 0294a14).
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.