Viện Nghiên Cứu Phật Học


QUYỂN 38

1074. UẤT-TỲ-LA CA-DIẾP[1]

 

Tôi nghe như vầy:

Một thời, đức Phật cùng với một ngàn vị Tỳ-kheo du hành trong nhân gian tại nước Ma-kiệt-đề.[2] Các Tỳ-kheo này trước đây là những đạo sĩ bện tóc,[3] nay đều đắc quả A-la-hán, các lậu đã sạch, việc cần làm đã làm xong, đã xả bỏ gánh nặng, chóng được tự lợi, sạch các hữu kiết sử, đạt được chánh trí, giải thoát hoàn toàn.[4]

Đức Phật cùng các Tỳ-kheo ấy đến trú trong Trượng Lâm,[5] tháp Thiện Kiến Lập.[6] Bấy giờ, vua nước Ma-kiệt-đề là Bình-sa[7] nghe tin Thế Tôn du hành nhân gian từ nước Ma-kiệt-đề đến ngụ tại Trượng Lâm, tháp Thiện Kiến Lập. Thế rồi, nhà vua cùng với các tiểu vương, quần thần, đoàn tùy tùng, với mười hai ngàn cỗ xe, mười tám ngàn xe ngựa, cùng vô số người đi bộ, các Bàla-môn, trưởng giả xứ Ma-kiệt-đề đều chuẩn bị diện kiến Thế Tôn.

Nhà vua rời khỏi thành Vương Xá, đến chỗ Thế Tôn để cung kính cúng dường. Tới đầu đường, vua xuống xe đi bộ. Lúc bước vào cửa trong, vua cởi bỏ năm thứ trang sức, gồm mũ, lọng, quạt, kiếm, giày da[8] rồi tiến đến trước Phật, chỉnh y phục, sửa áo bày vai phải, đảnh lễ đức Phật, nhiễu quanh Phật ba vòng rồi tự xưng danh tánh:

_ Bạch Thế Tôn! Con là Bình-sa, vua nước Ma-kiệt-đề.

Đức Phật bảo:

_ Đúng vậy, Đại vương! Ngài là Bình-sa, mời ngài an tọa.

Khi ấy, Vua Bình-sa lại đảnh lễ sát chân Phật rồi ngồi sang một bên. Các tiểu vương, đại thần, Bà-la-môn, cư sĩ đều đảnh lễ sát chân Phật rồi tuần tự ngồi xuống.

Lúc ấy, Uất-tỳ-la Ca-diếp[9] cũng đang ngồi tại đó. Khi ấy, các Bà-la-môn, trưởng giả thầm nghĩ: “Là Đại Sa-môn theo ngài Uất-tỳ-la Ca-diếp tu Phạm hạnh hay là ngài Uất-tỳ-la Ca-diếp theo Đại Sa-môn tu Phạm hạnh?”

Thế Tôn biết tâm niệm của các Bà-la-môn và các trưởng giả, liền dùng kệ hỏi:

Uất-tỳ-la Ca-diếp,
Thấy lợi gì nơi đây,
Bỏ phụng thờ lúc trước,
Thờ lửa và các việc?
Nay hãy nói nghĩa này,
Vì sao bỏ thờ lửa?

Uất-tỳ-la Ca-diếp liền nói kệ bạch Phật:

Tiền tài, thức ăn ngon,
Nữ sắc, vui năm dục,
Quán cảm thọ đời sau,
Đều vô cùng nhơ nhớp,
Thế nên đã từ bỏ,
Thờ phụng lửa trước kia.

Thế Tôn lại dùng kệ hỏi

Ông chẳng đắm thế gian,
Năm dục: Tiền, sắc, vị,
Sao lại bỏ trời, người?
Ca-diếp, tùy nghĩa nói.

Ca-diếp lại nói kệ đáp Thế Tôn:

Thấy đạo lìa hữu dư,
Lặng yên, không dấu vết,
Không sở hữu, không nhiễm,
Không đường đạo nào khác.
Cho nên đều từ bỏ,
Phụng thờ lửa trước đây,
Những tế đàn, thọ trì,
Phụng thờ nước hoặc lửa.
Ngu si chìm trong đó,
Chí cầu đạo giải thoát,
Mờ mịt, không trí tuệ,
Hướng sanh, già, bệnh, chết.
Chẳng thấy con đường chánh,
Vĩnh viễn lìa tử sanh,
Nay mới nhờ Thế Tôn,
Được thấy đạo vô vi.
Giáo pháp bậc Đại Long,[10]
Đưa người qua bờ kia,
Mâu-ni rộng cứu độ,
An ủi vô lượng chúng,
Nay mới biết Cù-đàm,
Bậc siêu xuất chân đế.

Đức Phật lại nói kệ khen Ca-diếp:

Lành thay! Này Ca-diếp,
Trước tư duy sai trái,
Tuần tự biết phân định,
Cầu đến nơi tối thắng.

– Này Ca-diếp! Nay ông hãy an ủi tâm đồ chúng của mình.

Khi ấy, Uất-tỳ-la Ca-diếp liền nhập định, dùng sức thần túc hướng về phương Đông, bay lên hư không và hiện ra bốn thứ thần biến đi, đứng, nằm, ngồi rồi nhập Hỏa tam-muội, toàn thân sáng chói với đủ sắc xanh, vàng, đỏ, trắng, pha lê, hồng; trên thân ra nước, dưới thân ra lửa để thiêu đốt thân, hoặc từ trên thân lại tuôn ra nước để rưới khắp thân; hoặc trên thân ra lửa để đốt thân, dưới thân tuôn nước để rưới khắp thân. Hiện hóa đủ thứ thần biến như thế xong, Uất-tỳ-la Ca-diếp đảnh lễ sát chân Phật và thưa rằng:
– Bạch Thế Tôn! Phật là Thầy của con, con là đệ tử.

Đức Phật bảo:
– Ta đúng là Thầy của ông, ông là đệ tử! Hãy an tọa.

Uất-tỳ-la Ca-diếp trở lại chỗ ngồi của mình.

Bấy giờ, các Bà-la-môn, trưởng giả xứ Ma-kiệt-đề đều thầm nghĩ: “Uất-tỳla Ca-diếp đã quyết định ở chỗ Đại Sa-môn tu hành Phạm hạnh.”

Đức Phật nói kinh này xong, Vua Bình-sa nước Ma-kiệt-đề cùng các trưởng giả, Bà-la-môn nghe lời Phật dạy đều hoan hỷ và tùy hỷ, đảnh lễ rồi ra về.

***

Chú thích:

[1] Tựa đề đặt theo nội dung kinh. Tạp. 雜 (T.02. 0099.1074. 0279a12). Tham chiếu: Biệt Tạp. 别雜 (T.02. 0100.13. 0377a14); Tần-bệ-sa-la vương nghinh Phật kinh 頻鞞娑邏王迎佛經 (T.01. 0026.62. 0497b02).

[2] Ma-kiệt-đề (摩竭提, Magadha).

[3] Nguyên tác: Oanh phát xuất gia (縈髮出家, jatila).

[4] Nguyên tác: Thiện giải thoát (善解脫, suvimutta). Xem chú thích 54, kinh số 22, quyển 1, tr. 19; Tạp. 雜 (T.02. 0099.22. 0004c20).

[5] Trượng Lâm (杖林, Laṭṭhivana).

[6] Thiện Kiến Lập (善建立, Supatiṭṭha).

[7] Bình-sa (瓶沙, Bimbisāra) cũng gọi là Tần-tỳ-sa-la (頻鞞娑邏), Tần-bà-sa-la (頻婆娑羅), vua nước Ma-kiệt-đà (摩竭陀, Magadha).

[8] Nguyên tác: Trừ khứ ngũ sức. Thoát quan, khước cái, trừ phiến, khứ kiếm đao, thoát cách xỉ (除去五飾脫冠, 卻蓋, 除扇, 去劍刀, 脫革屣): Năm biểu tượng của bậc đế vương. Tần-bệ-sa-la vương nghinh Phật kinh 頻鞞娑邏王迎佛經 (T.01. 0026.62. 0497b19): Năm loại nghi trượng là kiếm, lọng, mũ thiên quan, phất trần cán ngọc và hài thêu (五儀式: 一者, 劍, 二者, 蓋, 三者, 天冠, 四者, 珠柄拂, 五者, 嚴飾屣).

[9] Uất-tỳ-la Ca-diếp (欝鞞羅迦葉, Uruvelā Kassapa).

[10] Đại Long (大龍) chỉ cho đức Phật.

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.