Viện Nghiên Cứu Phật Học


QUYỂN 38

1072. TÔN GIẢ TĂNG-CA-LAM[1]

 

Tôi nghe như vầy:

Một thời, đức Phật ngụ tại vườn Cấp Cô Độc, trong rừng Kỳ-đà, thuộc nước Xá-vệ.

Bấy giờ, Tôn giả Tăng-ca-lam[2] du hành giữa nhân gian, từ nước Câu-tát-la đến vườn Cấp Cô Độc, trong rừng Kỳ-đà, thuộc nước Xá-vệ. Người vợ trước đây[3] của Tỳ-kheo Tăng-ca-lam đang ở tại Xá-vệ, nghe tin Tỳ-kheo Tăng-calam du hành giữa nhân gian, từ nước Câu-tát-la đến vườn Cấp Cô Độc, trong rừng Kỳ-đà, thuộc nước Xá-vệ, thế nên cô liền mặc y phục đẹp, trang điểm vòng hoa, ôm con tìm tới Kỳ Hoàn,[4] đến trước phòng Tỳ-kheo Tăng-ca-lam.

Lúc ấy, Tôn giả Tăng-ca-lam ra khỏi phòng và đang kinh hành tại khu đất trống, người vợ cũ liền tiến đến trước mặt Tôn giả rồi nói:

_ Đứa bé này còn nhỏ, thế mà anh bỏ đi tu, vậy ai sẽ nuôi dưỡng đây?

Tỳ-kheo Tăng-ca-lam không trả lời, người vợ nói như vậy đến ba lần nhưng Tỳ-kheo cũng không nói gì. Khi ấy, người vợ nói tiếp:

_ Tôi đã ba lần bảo cho anh biết, vậy mà anh chẳng nói gì với tôi, chẳng ngó ngàng gì tới tôi, thôi thì nay tôi bỏ đứa nhỏ lại đây.

Người vợ ấy liền bỏ đứa nhỏ ngay đầu con đường mà Tỳ-kheo đang kinh hành rồi bỏ đi và nói:

_ Này Sa-môn! Đây là con của ông, ông hãy tự nuôi nấng, nay tôi sẽ đi!

Khi ấy, Tôn giả Tăng-ca-lam cũng chẳng nhìn đứa bé. Thấy vậy, người vợ ấy thầm nghĩ: “Sa-môn này chẳng để ý gì đến đứa bé, có lẽ ông ấy đã được chỗ mà tiên nhân khó được. Lành thay! Sa-môn chắc đã được giải thoát.”

Vì mong muốn không thành nên người vợ đành phải ôm con trở về.

Bấy giờ, Thế Tôn đang an tịnh nghỉ trưa,[5] với thiên nhĩ siêu việt hơn người thường nên Ngài đã nghe được những lời nói của người vợ cũ Tôn giả Tăngca-lam, liền nói kệ:

Việc đến chẳng hoan hỷ,
Việc đi chẳng lo buồn,
Với thế gian hòa hợp,
Giải thoát, không nhiễm trước.
Ta nói Tỳ-kheo kia,
Chân thật Bà-la-môn,
Việc đến chẳng hoan hỷ,
Việc đi chẳng lo buồn.
Không nhiễm cũng không lo,
Hai tâm đều vắng lặng,
Ta nói Tỳ-kheo này,
Chân thật Bà-la-môn.

Đức Phật nói kinh này xong, Tôn giả Tăng-ca-lam nghe lời Phật dạy đã hoan hỷ và tùy hỷ, đảnh lễ rồi lui ra.

***

Chú thích

[1] Tựa đề đặt theo nội dung kinh. Tạp. 雜 (T.02. 0099.1072. 0278b11). Tham chiếu: Biệt Tạp. 别雜 (T.02. 0100.11. 0376b21); Tăng. 增 (T.02. 0125.35.10. 0701c15); Ud. 5.

[2] Tăng-ca-lam (僧迦藍, Saṅgāmaji).

[3] Nguyên tác: Bản nhị (本二), còn gọi “cố nhị” (故二), “bản thê” (本妻). Ud. 8: Purāṇadutiyikā (người từng là vợ).

[4] Tức Kỳ-đà (祇陀).

[5] Nguyên tác: Nhập trú chánh thọ (入晝正受, divāvihāraṃ): Tọa thiền buổi trưa.

 

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.