Viện Nghiên Cứu Phật Học

Tam tạng Thánh điển PGVN 20 » Tam tạng Phật giáo Bộ phái 04 » 

KINH TẠP A-HÀM
(雜阿含經)

Hòa Thượng THÍCH THIỆN SIÊU
Hòa Thượng THÍCH THANH TỪ

Mục Lục

KINH SỐ 1028

 

Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật trú tại nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, trong vườn Cấp Cô Độc.
Bấy giờ, có nhiều Tỳ-kheo cùng tụ tập ở giảng đường Già-lê-lệ, lúc đó có nhiều Tỳ-kheo bị bệnh.
Chiều hôm ấy, Thế Tôn tọa thiền xong, đi đến giảng đường Già-lê-lệ, ở trước đại chúng trải tòa ngồi và bảo các Tỳ-kheo:
– Các Tỳ-kheo nên chánh niệm, chánh trí để đợi thời, đó là tùy thuận lời Ta dạy. Này các Tỳ-kheo, thế nào là chánh niệm? Nghĩa là Tỳ-kheo sống quán niệm nội thân trên thân, tinh cần, chánh niệm, chánh trí, điều phục tham ưu thế gian, sống quán niệm ngoại thân trên thân, sống quán niệm nội ngoại thân trên thân; nội thọ, ngoại thọ; nội tâm, ngoại tâm, nội ngoại tâm; sống quán niệm nội pháp, ngoại pháp, nội ngoại pháp trên pháp, phương tiện tinh cần, chánh niệm, chánh trí, điều phục tham ưu thế gian. Đây gọi là Tỳ-kheo ức niệm chơn chánh.
Thế nào là chánh trí? Nghĩa là Tỳ-kheo hoặc tới, hoặc lui đều an trụ chánh trí, trông nhìn, quán sát, co, duỗi, cúi, ngước, đắp y, ôm bát, đi, đứng, nằm, ngồi, ngủ, thức cho đến năm mươi, sáu mươi người đều y theo hạnh chánh trí, nói năng và im lặng. Đây gọi là chánh trí. Cũng thế, Tỳ-kheo, người tu chánh niệm, chánh trí có thể khởi cảm thọ vui, có nhân duyên chứ không phải không nhân duyên.
Nhân duyên thế nào? Nghĩa là duyên nơi thân người khởi suy nghĩ: “Thân này của ta là vô thường, hữu vi, tâm nhân duyên sanh, cảm thọ vui cũng vô thường, hữu vi, tâm nhân duyên sanh”, quán sát thân và cảm thọ vui, quán sát vô thường, quán sát sanh diệt, quán sát ly dục, quán sát diệt tận, bỏ quán sát kia, thân cùng với cảm thọ vui vô thường cho đến xả. Nếu đối với thân và cảm thọ vui tham dục sử, vĩnh viễn không còn sai sử nữa. Cũng thế, chánh niệm, chánh trí sinh cảm thọ khổ, có nhân duyên chứ không phải không nhân duyên. Thế nào là duyên? Như thế duyên nơi thân khởi suy nghĩ: “Cái thân này của ta là vô thường, hữu vi, tâm nhân duyên sanh, cảm thọ khổ cũng vô thường, hữu vi, tâm nhân duyên sanh”; quán sát thân và cảm thọ khổ, vô thường cho đến xả ở đây, và khổ thọ do sân nhuế sai sử trọn không còn sai sử nữa. Cũng thế, chánh niệm, chánh trí, sanh ra cảm thọ, chẳng khổ, chẳng vui, có nhân duyên không phải không nhân duyên.
Nhân duyên như thế nào? Nghĩa là duyên nơi thân khởi suy nghĩ: “Thân này của ta là vô thường, hữu vi, tâm nhân duyên sanh, cảm thọ chẳng khổ chẳng vui, cũng vô thường, hữu vi, tâm nhân duyên sanh”; quán sát cái thân và cảm thọ chẳng khổ chẳng vui kia, vô thường cho đến xả. Nếu thuộc về thân và cảm thọ không khổ, không vui thì vô minh sử vĩnh viễn không còn sai sử. Đa văn Thánh đệ tử quán sát như thế, đối với sắc chán lìa, đối với thọ, tưởng, hành, thức chán lìa, chán lìa rồi ly dục, ly dục rồi được giải thoát, giải thoát tri kiến: “Sự sanh của ta đã tận, Phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm xong, tự biết không còn thọ thân sau.”
Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ:

Đang khi cảm thọ vui,
Chẳng thể biết lạc thọ,
Bị tham dục sai sử,
Chẳng thấy sự xuất ly.
Đang khi cảm thọ khổ,
Chẳng thể biết khổ thọ,
Bị sân nhuế sai sử,
Chẳng thấy đạo xuất ly.
Cảm thọ không vui, khổ,
Đẳng Chánh Giác đã nói,
Người kia không thể biết,
Trọn chẳng qua bờ kia.
Nếu Tỳ-kheo tinh cần,
Chánh trí chẳng khuynh động,
Đối với tất cả thọ,
Trí tuệ đều biết rõ.
Hay biết các thọ rồi,
Hiện tại tận các lậu,
Nương trí tuệ mạng chung,
Niết-bàn, không đọa lạc.

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.