Viện Nghiên Cứu Phật Học

Tam tạng Thánh điển PGVN 20 » Tam tạng Phật giáo Bộ phái 04 » 

KINH TẠP A-HÀM
(雜阿含經)

Hòa Thượng THÍCH THIỆN SIÊU
Hòa Thượng THÍCH THANH TỪ

Mục Lục

 

KINH SỐ 985

 

Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật trú tại nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, trong vườn Cấp Cô Độc.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
– Có khi từ yêu thương sanh yêu thương, từ yêu thương sanh giận hờn, từ giận hờn sanh yêu thương, từ giận hờn sanh giận hờn.
Thế nào là từ yêu thương sanh yêu thương? Nghĩa là có người đối với chúng sanh có vui thích, có thương yêu, có nghĩ nhớ, có hài lòng. Người kia đối với người nọ có vui thích thương mến, có nghĩ nhớ và hài lòng thuận theo, nghĩ rằng: “Ta đối với chúng sanh kia có vui thích, thương mến, nghĩ nhớ và hài lòng thuận theo. Người khác đối với người kia cũng vui thích, yêu mến, nghĩ nhớ và hài lòng thuận theo nên ta đối với người khác lại sanh yêu mến.” Đây gọi là từ yêu thương sanh yêu thương.
Thế nào là từ yêu thương sanh giận hờn? Nghĩa là có người đối với chúng sanh có vui thích, có yêu thương, nghĩ nhớ, hài lòng nhưng mà người khác đối với người kia không ưa thích, không thương mến, không nghĩ nhớ, không vừa ý, thuận theo, nghĩ rằng: “Ta đối với chúng sanh kia, có ưa thích, thương mến, nghĩ nhớ, vừa ý, thuận theo nhưng người khác đối với người kia không ưa thích, không thương mến, chẳng nghĩ nhớ, chẳng vừa ý, thuận theo, nên ta đối với người kia sanh giận hờn.” Đây gọi là từ yêu thương sanh giận hờn.
Thế nào là từ giận hờn sanh yêu thương? Nghĩa là có người đối với chúng sanh chẳng ưa thích, chẳng yêu thương, chẳng nghĩ nhớ, chẳng vừa ý. Người khác lại đối với người kia chẳng vui thích, chẳng yêu mến, chẳng nghĩ nhớ, chẳng hài lòng, thuận theo, nên ta đối với người khác sanh niệm ưa thích. Đây là từ giận hờn sanh yêu thương. Thế nào là từ giận hờn sanh giận hờn? Có người đối với chúng sanh không vui thích, không yêu mến, không nhớ nghĩ, không hài lòng, nhưng mà người khác đối với người kia có vui thích, thương mến, có nghĩ nhớ, có vừa ý, thuận theo, nghĩ rằng: “Ta đối với chúng sanh kia không vui thích, không yêu mến, không nghĩ nhớ, không vừa ý mà người khác đối với người kia có vui thích, thương mến, có nghĩ nhớ, vừa ý, thuận theo, nên khi ta bị người khác hỏi liền nổi sân.” Đây gọi là từ giận hờn sanh giận hờn.
Nếu Tỳ-kheo lìa dục, lìa pháp ác bất thiện, có giác, có quán... an trụ đầy đủ từ Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền, từ yêu thương sanh yêu thương, từ giận hờn sanh giận hờn, từ giận hờn sanh yêu thương, từ yêu thương sanh giận hờn, tất cả đều đã đoạn, đã biết. Đoạn tuyệt cội gốc nó như chặt đứt ngọn cây đa-la, không thể mọc lại nữa, ở đời vị lai trở thành pháp bất sanh. Nếu Tỳ-kheo kia sạch hết hữu lậu, tâm vô lậu giải thoát, tuệ giải thoát, hiện tại tự biết tác chứng: “Sự sanh của ta đã tận, Phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm xong, tự biết không còn thọ thân sau.” Chính ngay lúc ấy không tự đề cao, không khởi trần lao, không thiêu đốt, chẳng hiềm người.
Thế nào là tự đề cao? Nghĩa là thấy sắc là ngã, sắc ở trong ngã, ngã ở trong sắc; thọ, tưởng, hành, thức, cũng lại như vậy. Đó gọi là tự đề cao. Thế nào là không tự đề cao? Nghĩa là không thấy sắc là ngã, sắc khác ngã, sắc ở trong ngã, ngã ở trong sắc; thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như thế. Đây gọi là không tự đề cao.
Thế nào là trả lại tự cao? Nghĩa là đối với người mạ lỵ thì mắng chửi lại; đối với người sân giận thì sân giận lại, đối với người đánh thì đánh lại; đối với người đụng chạm thì đụng chạm lại. Đây gọi là trả lại tự cao.
Thế nào là không trả lại tự cao? Nghĩa là đối với người mắng chửi thì không mắng chửi lại; đối với người sân giận thì không sân giận lại; đối với người đánh thì không đánh lại; đối người đụng chạm không đụng chạm lại. Đây gọi là không trả lại tự cao.
Thế nào là khởi trần lao? Nghĩa là có ngã, ngã dục... mười tám thứ ái. Đây gọi là khởi trần lao. Thế nào là không khởi trần lao? Nghĩa là không có ngã, không có ngã dục... mười tám thứ ái không khởi. Đây gọi là không khởi trần lao.
Thế nào là thiêu đốt? Nghĩa là có ngã sở, ngã sở dục... mười tám ái hành bên ngoài. Đây gọi là thiêu đốt.
Thế nào là không thiêu đốt? Nghĩa là không có ngã sở, không có dục của ngã sở... không có mười tám thứ ái hành bên ngoài. Đây gọi là không thiêu đốt.
Thế nào gọi là hiềm người? Nghĩa là thấy ngã là chân thật, đối với ngã dục, ngã mạn, ngã sử không đoạn, không biết. Đây gọi là hiềm người. Thế nào là không hiềm người? Nghĩa là chẳng thấy ngã chân thật, đối với ngã mạn, ngã dục, ngã sử đã đoạn, đã biết. Đây gọi là chẳng hiềm người.
Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.