Viện Nghiên Cứu Phật Học

Tam tạng Thánh điển PGVN 20 » Tam tạng Phật giáo Bộ phái 04 » 

KINH TẠP A-HÀM
(雜阿含經)

Hòa Thượng THÍCH THIỆN SIÊU
Hòa Thượng THÍCH THANH TỪ

Mục Lục

KINH SỐ 964

 

Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật trú tại thành Vương Xá, trong Vườn Trúc Ca-lan-đà.
Bấy giờ, có người thuộc chủng tộc Bà-tha xuất gia đi đến chỗ Phật, cùng Phật chào hỏi ân cần, rồi lui ngồi một bên, bạch Phật:
– Thưa Cù-đàm! Con có điều muốn hỏi, Ngài có rảnh để giải thích cho chăng?
Bấy giờ, Thế Tôn im lặng. Bà-tha xuất gia hỏi ba lần như thế, Phật vẫn lặng thinh không đáp. Bà-tha xuất gia bạch Phật:
– Con với Cù-đàm rất hòa thuận, bây giờ con hỏi vì sao Ngài im lặng?
Khi ấy, Thế Tôn nghĩ rằng: “Bà-tha xuất gia luôn luôn ngay thẳng, thật thà không dối trá, khi hỏi như vậy là do chẳng biết chớ chẳng phải cố ý não loạn. Bây giờ, Ta nên dùng A-tỳ-đàm luận để giúp Bà-tha lãnh thọ.” Nghĩ như thế xong, Phật bảo Bà-tha xuất gia:
– Ông cứ tùy ý hỏi, Ta sẽ giải thích.
Bà-tha bạch Phật:
– Thưa Cù-đàm! Thế nào, có thiện pháp, bất thiện pháp không? Phật đáp: – Có.
Bà-tha bạch Phật:
– Xin Ngài nói cho con biết thiện pháp và bất thiện pháp?
Phật bảo Bà-tha:
– Ta sẽ vì ông nói sơ lược về thiện pháp và bất thiện pháp, hãy lắng nghe, khéo suy nghĩ. Này Bà-tha! Tham dục là bất thiện pháp, điều phục tham dục là thiện pháp; sân nhuế, ngu si là bất thiện pháp, điều phục sân nhuế, ngu si là thiện pháp; sát sanh là bất thiện pháp, lìa bỏ sát sanh là thiện pháp; trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói hai lưỡi, nói ác, nói thêu dệt, tham nhuế, tà kiến đều là bất thiện pháp; chẳng trộm cắp... chánh kiến là thiện pháp. Vì vậy, Bà-tha, Ta đã nói ba thứ thiện pháp và ba thứ bất thiện pháp. Cũng vậy, Thánh đệ tử đối với ba thứ thiện pháp và ba thứ bất thiện pháp biết như thật, mười loại thiện pháp và mười loại bất thiện pháp đều biết như thật thì tham dục, sân nhuế, ngu si diệt sạch không còn thì tất cả hữu lậu diệt sạch, tâm vô lậu giải thoát, tuệ giải thoát, hiện tại tự biết tác chứng: “Sự sanh của ta đã dứt, Phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm xong, tự biết không còn thọ thân sau.”
Bà-tha bạch Phật:
– Có Tỳ-kheo nào ở trong Pháp, Luật này được sạch hết hữu lậu, tâm vô lậu giải thoát,... “... chẳng thọ thân sau” chăng?
Phật bảo Bà-tha:
– Không những một, hai, ba, cho đến năm trăm mà có nhiều Tỳ-kheo trong Pháp, Luật này sạch hết các hữu lậu... “... chẳng thọ thân sau.”
Bà-tha bạch Phật:
– Hãy gác việc các Tỳ-kheo lại! Có một Tỳ- kheo-ni nào ở trong Pháp, Luật này hết sạch hữu lậu... “... chẳng thọ thân sau” chăng?
Phật bảo Bà-tha:
– Chẳng những một, hai, ba Tỳ-kheo-ni cho đến năm trăm mà có nhiều Tỳkheo-ni trong Pháp, Luật này hết sạch hữu lậu... “... chẳng thọ thân sau.”
Bà-tha bạch Phật:
– Hãy gác việc Tỳ-kheo-ni lại! Có một nam cư sĩ nào tu các Phạm hạnh trong Pháp, Luật này mà không còn hoài nghi chăng?
Phật bảo Bà-tha:
– Chẳng những một, hai, ba cho đến năm trăm nam cư sĩ, cho đến nhiều nam cư sĩ tu các Phạm hạnh ở trong Pháp, Luật này đoạn năm hạ phần kiết sử, đắc quả A-na-hàm, không còn sanh trở lại đời này nữa.
Bà-tha bạch Phật:
– Hãy gác việc nam cư sĩ lại! Có một nữ cư sĩ nào ở trong Chánh pháp, Luật này, tu trì Phạm hạnh mà đối với Pháp, Luật này không còn hoài nghi chăng?
Phật bảo Bà-tha:
– Không những một, hai, ba nữ cư sĩ, cho đến năm trăm mà có nhiều nữ cư sĩ ở trong Chánh pháp, Luật này, đoạn năm hạ phần kiết sử, ở nơi khác hóa sanh, đắc A-na-hàm, không sanh trở lại nơi này nữa. Bà-tha bạch Phật: – Thôi hãy gác việc Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, nam nữ cư sĩ tu Phạm hạnh lại. Có nam cư sĩ nào hưởng thụ năm dục mà ở trong Chánh pháp, Luật này, không còn hoài nghi chăng?
Phật bảo Bà-tha:
– Chẳng những một, hai, ba cho đến năm trăm, mà có nhiều nam cư sĩ ở tại gia với vợ con, trang sức hương hoa, nuôi dưỡng nô tỳ, ở trong Pháp, Luật này đoạn ba kiết sử; tham, sân nhuế cạn mỏng, đắc Tư-đà-hàm, chỉ một lần qua lại thế gian là giải thoát khổ.
Bà-tha bạch Phật:
– Hãy gác việc nam cư sĩ lại! Có nữ cư sĩ nào hưởng thụ năm dục mà ở trong Pháp, Luật này chẳng còn hoài nghi chăng?
Phật bảo Bà-tha:
– Chẳng những một, hai, ba, cho đến năm trăm, mà có nhiều nữ cư sĩ ở tại gia nuôi dưỡng con cái, sống trong năm dục, trang điểm hương hoa mà ở trong Pháp, Luật này ba kiết sử đã hết sạch, đắc Tu-đà-hoàn, chẳng rơi vào đường ác, quyết định hướng thẳng đến Chánh giác, bảy lần qua lại sanh trong trời, người, là giải thoát khổ.
Bà-tha bạch Phật:
– Thưa Cù-đàm! Nếu Sa-môn Cù-đàm thành Chánh đẳng Chánh giác, còn các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ tu Phạm hạnh và các nam, nữ cư sĩ sống trong năm dục chẳng được công đức như thế thì việc Ngài không trọn vẹn. Nhưng vì Sa-môn Cù-đàm đã thành Chánh đẳng Chánh giác, còn Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ tu các Phạm hạnh mà thành tựu được công đức như thế thì việc Ngài đã trọn vẹn. Thưa Cù-đàm! Nay con xin được nói ví dụ.
Phật bảo Bà-tha:
– Tùy ý ông nói.
Bà-tha bạch Phật:
– Như trời mưa lớn, nước chảy xuống thành dòng; Pháp, Luật của Cù-đàm cũng như thế; Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ, hoặc người nam, người nữ đều theo dòng hướng đến Niết-bàn, chuyển đến Niết-bàn. Thật là vô cùng kỳ lạ! Đối Pháp, Luật và Phật, Pháp, Tăng đều bình đẳng. Còn người ngoại đạo xuất gia đi đến chỗ Cù-đàm, ở trong Chánh pháp, Luật, cầu xin được xuất gia thọ giới Cụ túc thì bao lâu được phép xuất gia?
Phật bảo Bà-tha:
– Nếu tu sĩ ngoại đạo muốn đến trong Chánh pháp, Luật, cầu xuất gia thọ giới Cụ túc phải trải qua bốn tháng nương nơi Hòa thượng, rồi nhận lãnh y để tu hành. Nhưng việc này cũng chỉ vì người tạm đặt ra thời hạn mà thôi. Bà-tha bạch Phật:
– Nếu tu sĩ ngoại đạo muốn đến ở trong Chánh pháp, Luật, cầu xuất gia thọ giới Cụ túc thì đều cho phép đến nương Hòa thượng để lãnh thọ y. Nếu đủ bốn tháng được phép xuất gia thì con nay có thể trong bốn tháng nương theo Hòa thượng để lãnh thọ y, còn nếu ở trong Pháp, Luật, con được xuất gia, thọ giới Cụ túc, con sẽ ở trong Pháp, Luật của Cù-đàm xuất gia thọ giới Cụ túc, tu trì Phạm hạnh.
Phật bảo Bà-tha:
– Ta trước đây chẳng nói là tạm vì người về đặt ra thời hạn đó sao?
Bà-tha bạch Phật:
– Thưa Cù-đàm, đúng thế!
Lúc ấy Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy nên độ Bà-tha kia xuất gia ở trong Chánh pháp, Luật, xuất gia thọ giới Cụ túc.
Bà-tha tu sĩ ngoại đạo liền được xuất gia trong Chánh pháp, Luật, và thọ giới Cụ túc, trở thành Tỳ-kheo... chỉ trong nửa tháng đối với những điều phải học nên biết, nên phân biệt, nên thấy, nên đắc, nên giác ngộ, nên chứng thì ông đều biết, đều phân biệt đều thấy, đều đắc, đều giác, đều chứng Chánh pháp, Luật của Như Lai.
Tôn giả Bà-tha nghĩ thầm: “Ta nay đã học những điều nên biết, nên phân biệt, nên thấy, nên đắc, nên giác, nên chứng, tất cả ta đều biết, đều thấy, đều đắc, đều giác, đều chứng, bây giờ ta nên đi đến gặp Thế Tôn.”
Khi ấy Bà-tha đi đến Thế Tôn, đảnh lễ Phật, rồi lui đứng một bên, bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Đối với những điều phải học, nên biết, nên phân biệt, nên thấy, nên đắc, nên giác, nên chứng, tất cả con đều đã biết, đều phân biệt, đều thấy, đều đắc, đều giác, đều chứng được Chánh pháp, Luật của Thế Tôn. Xin Thế Tôn thuyết pháp cho con, sau khi nghe pháp, con sẽ một mình ở chỗ vắng, chuyên tinh tư duy, sống không buông lung, suy nghĩ về lý do khiến người thiện nam tử cạo bỏ râu tóc, khoác áo cà-sa, chánh tín, không nhà, xuất gia học đạo,... tự biết chẳng thọ thân sau.
Phật bảo Bà-tha:
– Có hai pháp tu tập, tu tập nhiều, đó là chỉ và quán. Hai pháp này tu tập, tu tập nhiều được biết quả báo của các cõi, giác biết nơi các cõi, biết các cõi, giác các cõi. Này Tỳ-kheo! Cũng vậy, muốn cầu lìa dục, lìa pháp ác bất thiện... an trụ đầy đủ đệ Tứ thiền, Từ, Bi, Hỷ, Xả, Không nhập xứ, Thức nhập xứ, Vô sở hữu nhập xứ, Phi tưởng phi phi tưởng nhập xứ; khiến ba kiết sử hết sạch, đắc Tu-đà-hoàn; ba kiết sử hết sạch, tham, sân nhuế cạn mỏng, đắc Tư-đà-hàm; năm hạ phần kiết sử tận, đắc A-na-hàm. Có các thứ cảnh giới thần thông: Thiên nhãn, Thiên nhĩ, Tha tâm trí, Túc mạng trí, Sanh tử trí, Lậu tận trí đều được tất cả. Vì thế Tỳ-kheo nên tu hai pháp, tu tập, tu tập nhiều hai pháp này nên biết được các cõi... được lậu tận.
Tôn giả Bà-tha nghe Phật nói xong, hoan hỷ đảnh lễ rồi đi.
Tôn giả Bà-tha một mình ở chỗ vắng, chuyên tinh tư duy, sống không buông lung... “... tự biết chẳng thọ thân sau.”
Lúc bấy giờ, có nhiều Tỳ-kheo trang nghiêm phương tiện, muốn đi đến chỗ Thế Tôn để cung kính cúng dường. Bà-tha hỏi các Tỳ-kheo:
– Các ngài trang nghiêm phương tiện muốn đi đến Thế Tôn cung kính cúng dường phải không?
Các Tỳ-kheo đáp:
– Phải.
Bấy giờ, Tôn giả Bà-tha nói với các Tỳ-kheo:
– Các Tôn giả cho tôi gởi lời kính lễ và thăm hỏi Thế Tôn: “Ngài được khỏe mạnh, ít bệnh, ít não và sống an vui không?” Và thưa rằng Tỳ-kheo Bà-tha bạch Phật: “Con đã cúng dường Thế Tôn, phụng sự đầy đủ, khiến Thế Tôn hài lòng chứ chẳng phải không hài lòng. Thưa Đại sư! Việc cần làm con đã hoàn tất, cúng dường Đại sư khiến Ngài hài lòng chứ chẳng phải không hài lòng.”
Các Tỳ-kheo đi đến chỗ Phật đảnh lễ Thế Tôn, rồi lui ngồi một bên, bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Tôn giả Bà-tha kính lễ Thế Tôn... “... hài lòng chứ chẳng phải không hài lòng.”
Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Chư thiên đã nói trước với Ta rồi các thầy nay lại nói. Như Lai thành tựu tri kiến đệ nhất, cũng như Tỳ-kheo Bà-tha có đức lực như thế.
Lúc ấy Thế Tôn lần thứ nhất nói lời thọ ký, cho Tỳ-kheo Bà-tha.
Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.