Viện Nghiên Cứu Phật Học

QUYỂN 27

720.  TÔN GIẢ A-NA-LUẬT THUYẾT PHÁP34

 

Tôi nghe như vầy:
Một thời, đức Phật ngụ tại vườn Cấp Cô Ðộc, trong rừng Kỳ-đà, thuộc nước Xá-vệ.
Bấy giờ, Tôn giả A-na-luật cũng đang ở tinh xá Tùng Lâm, thuộc nước Xá-vệ.
Khi ấy, số đông Tỳ-kheo đến chỗ Tôn giả A-na-luật, sau khi ân cần thăm hỏi xong, ngồi sang một bên rồi hỏi Tôn giả A-na-luật rằng:
– Tôn giả có biết, khi nỗ lực tu tập bảy giác phần thì được sống trong an lạc chăng?
Tôn giả A-na-luật bảo các Tỳ-kheo:
– Tôi biết rằng khi Tỳ-kheo nỗ lực tu tập bảy giác phần thì được sống trong an lạc.
Các Tỳ-kheo hỏi Tôn giả A-na-luật:
– Tỳ-kheo phải biết như thế nào khi nỗ lực tu tập bảy giác phần để được sống trong an lạc?
Tôn giả A-na-luật đáp:
– Tỳ-kheo nỗ lực tu tập niệm giác phần thì khéo biết tư duy: Tâm tôi đã khéo giải thoát, đã khéo loại trừ ham mê ngủ nghỉ, đã khéo điều phục trạo hối. Nếu tư duy về niệm giác phần theo cách như vậy rồi, lại thêm tinh tấn nỗ lực, tâm không biếng nhác, thân nhẹ nhàng không loạn động, buộc tâm một chỗ, không khởi loạn tưởng, chứng nhập nhất tâm. Đối với trạch pháp, tinh tấn, hỷ, khinh an, định và xả giác phần cũng như vậy. Đó gọi là khi Tỳ-kheo biết nỗ lực tu tập bảy giác phần thì được sống trong an lạc vậy.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Tôn giả A-na-luật dạy xong đều hoan hỷ và tùy hỷ, đứng dậy rồi lui ra.

***

34Tựa đề đặt theo nội dung kinh. Tạp. 雜 (T.02. 0099.720. 0193c18). Tham chiếu: S. 46.8 - V. 76.

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.