Tam tạng Thánh điển PGVN 20 » Tam tạng Phật giáo Bộ phái 04 »
Hòa Thượng THÍCH THIỆN SIÊU
Hòa Thượng THÍCH THANH TỪ
Kinh nói về nhân duyên Vua A-dục bố thí nửa trái a-ma-lặc.
Vua A-dục ở trong Chánh pháp của Như Lai được niềm tin kính lớn. Một hôm, vua hỏi các vị Tỳ-kheo:
– Người nào ở trong Chánh pháp Như Lai, thực hành bố thí rộng rãi?
Các Tỳ-kheo trả lời vua:
– Trưởng giả Cấp Cô Độc là người bố thí vô cùng rộng lớn.
Vua lại hỏi:
– Ông ấy bố thí bao nhiêu bảo vật?
Các Tỳ-kheo đáp:
– Đến ức ngàn vàng.
Vua nghe xong suy nghĩ: “Trưởng giả ấy còn có thể xả bỏ ức ngàn vàng. Nay ta là vua do duyên gì lại không đem ức trăm ngàn vàng bố thí? Nên đem ức trăm ngàn vàng bố thí.”
Vua cho dựng tám muôn bốn ngàn tháp Phật, trong các tháp này lại bố thí trăm ngàn vàng, lại mở đại hội năm năm. Hội có ba trăm ngàn Tỳ-kheo, dùng ba trăm ức vàng cúng dường trong chúng Tăng ấy. Phần thứ nhất là A-la hán, phần thứ hai là các vị Hữu học, phần thứ ba là chân thật phàm phu. Trừ kho tàng riêng, tất cả vật ở Diêm-phù-đề, phu nhân, thể nữ, thái tử, đại thần, bố thí cho chúng Tăng, rồi dùng bốn mươi ức vàng chuộc lại. Như thế tính toán dùng hết chín mươi sáu ức ngàn vàng.
Đến lúc vua bị bệnh nặng, tự biết sanh mạng sắp chấm dứt. Lúc ấy, có đại thần tên là La-đà-quật-đa, đời trước là đứa trẻ đồng bạn với vua, lúc vua bố thí nắm cát cho Phật. Vị đại thần này thấy vua bệnh nặng sắp lìa trần, cúi đầu nói kệ hỏi vua:
Vẻ mặt thường tươi sáng
Bên trăm ngàn thể nữ,
Ví như những đóa sen
Bầy ong bu mật ngọt,
Giờ xem dung mạo vua
Không còn nét tươi vui.
Vua đáp lại bằng kệ:
Ta nay chẳng lo âu
Mất của cải, ngôi vua,
Thân này và quyến thuộc
Cùng các thứ châu báu.
Ta chỉ buồn một điều
Không còn thấy Hiền thánh
Cúng dường đủ tứ sự.
Ta chỉ nghĩ thế ấy
Nhan sắc có đổi khác
Tâm ý không an ổn.
Lại nữa, ta thường có ước muốn đem đầy ức trăm ngàn vàng làm công đức, nay điều mong ước này chưa được trọn vẹn, nên để lại đời sau. Nếu tính toán trước sau bố thí vàng bạc, của báu, chỉ thiếu bốn ức chưa đầy đủ.
Vua liền sửa soạn các thứ trân bảo gởi cúng vào trong chùa Kê Tước và lập con của Pháp Ích tên Tam-ba-đề làm Thái tử. Các đại thần tâu với Thái tử rằng:
– Đại vương chẳng bao lâu sẽ mất, ngày nay đem trân bảo này gởi cúng vào nhà chùa. Bây giờ của cải, báu vật trong kho đã hết sạch. Theo pháp của các vua lấy vật làm quý, Thái tử nên xét lại việc này, chớ để nhà vua sử dụng hết.
Thái tử liền ban lệnh cho người giữ kho không được đem trân bảo ra cho vua dùng đến. Lúc đó vua tự biết các đồ vật vua đòi hỏi không thể được nữa, nên vua đem cái bát đựng đồ ăn bằng vàng cúng cho chùa. Thái tử lại giữ bát đựng đồ ăn bằng vàng mà cấp bát đựng đồ ăn bằng bạc, vua ăn xong lại gởi cúng cho nhà chùa; Thái tử lại ngưng bát đựng đồ ăn bằng bạc mà cấp cho đồ đồng, vua lại đem đồ này cúng cho chùa; lại ngưng đồ đồng cấp cho đồ gốm. Khi ấy trong tay nhà vua có nửa trái a-ma-lặc, vua buồn bã rơi nước mắt bảo các quan đại thần:
– Ngày nay ai là chủ đất nước này?
Vua nói kệ đáp:
Các người hộ tâm ta
Sao lời nói giả dối?
Ta nay còn làm vua
Lại chẳng được tự tại!
Nửa trái a-ma-lặc
Nay ở trong tay ta
Đây là vật của ta,
Ta hoàn toàn tự do.
Ôi, tôn kính giàu sang
Đáng chán, đáng xả bỏ!
Xưa thống lĩnh Diêm-phù
Nay bỗng dưng nghèo mạt
Như sông Hằng chảy xiết
Một đi chẳng trở về
Phú quý cũng như thế
Qua rồi chẳng trở lại.
Nhà vua lặp lại giống bài kệ Phật đã nói:
Có thịnh ắt có suy
Lấy suy làm rốt ráo,
Như Lai nói lời ấy
Chân thật không sai khác.
Những giáo lệnh trước kia
Nhanh chóng không chướng ngại
Nay có chút đòi hỏi
Lại chẳng tuân lời ta
Như gió bị núi ngăn
Như nước gặp bờ chặn
Giáo lệnh ta ngày nay
Từ đây đã dứt hẳn
Vô lượng chúng tùy tùng
Đánh trống thổi loa ốc
Thường trổi các kỹ nhạc
Hưởng thụ vui năm dục.
Thể nữ vài trăm chúng
Ngày đêm tự khoái lạc
Ngày nay đều hết sạch.
Như cây không hoa trái
Nhan mạo dần khô héo
Sắc lực cũng hao gầy
Như bông hoa tàn tạ
Ta nay cũng như thế.
Bấy giờ, Vua A-dục gọi kẻ hầu hạ bảo:
– Ngày nay ngươi còn nhớ ân ta nuôi dưỡng, ngươi hãy đem nửa trái a-malặc này cúng vào chùa Kê Tước, thay thế ta lễ bái Tỳ-kheo-tăng và thưa rằng: “Vua A-dục ân cần hỏi thăm đại Thánh chúng, tôi là Vua A-dục thống lĩnh Diêm-phù-đề, Diêm-phù-đề thuộc về tôi, ngày nay bỗng nhiên chẳng còn gì hết, chẳng có của cải bảo vật để bố thí chúng Tăng, đối với tất cả tài bảo mà chẳng được tự tại. Bấy giờ chỉ có nửa trái a-ma-lặc này tôi được tự do bố thí. Đây là bố thí đàn Ba-la-mật cuối cùng, xin chúng Tăng vì thương xót tôi thọ nhận sự bố thí này, khiến tôi cúng dường chúng Tăng được phước.”
Và vua nói kệ:
Nửa trái a-ma-lặc
Là vật thuộc về tôi
Tôi được quyền tự do
Nay đem cúng đại chúng.
Tâm hướng về Hiền thánh
Lại không người giúp tôi
Xin vì thương xót tôi
Thọ nhận a-ma-lặc.
Vì tôi dùng quả này
Nhân đầy phước vô lượng
Đời đời vui vi diệu
Thọ dụng chẳng cùng tận.
Bấy giờ, người sứ giả ấy nhận lệnh vua, liền đem nửa trái a-ma-lặc đi vào chùa Kê Tước. Đến trước vị Thượng tọa, toàn thân cung kính làm lễ, quỳ gối chắp tay hướng về Thượng tọa, nói kệ:
Thống lãnh Diêm-phù-đề
Một lọng, một tiếng trống
Dạo đi không chướng ngại
Như mặt trời soi sáng
Báo hành nghiệp đã đến
Ở đời chẳng bao lâu
Không còn uy đức vua
Như vầng nhật mây che
Vua hiệu là A-dục
Cúi đầu lạy chân Tăng
Gởi vật này bố thí
Nửa trái a-ma-lặc
Mong cầu phước đời sau
Xin thương xót vua ấy
Thánh chúng vì thương vua
Nhận nửa quả bố thí.
Lúc ấy, vị Thượng tọa kia bảo đại chúng:
– Ai nghe lời nói này mà chẳng chán thế gian? Chúng ta nghe chuyện này làm sao chẳng sanh chán lìa. Như kinh Phật nói: “Thấy việc suy hoại của người, nên sanh chán lìa, nếu có chúng sanh hiểu biết, nghe điều này đâu thể chẳng từ bỏ thế gian.” Và Thượng tọa nói kệ:
Vua bậc nhất thế gian
A-dục dòng Khổng Tước,
Diêm-phù-đề tự tại
Chủ quả a-ma-lặc.
Thái tử và quần thần
Cướp vật thí của vua,
Gởi nửa quả ma-lặc
Hàng phục kẻ tiếc của
Khiến họ sanh nhàm chán.
Kẻ ngu chẳng biết thí
Nhân quả được diệu lạc
Gởi cúng nửa trái cây.
Thượng tọa nghĩ thầm: “Làm thế nào đem nửa trái a-ma-lặc này chia tất cả chúng Tăng?” Thượng tọa liền dạy: “Đem nghiền nát để vào nồi nấu lên, làm xong rồi chia đủ cho tất cả chúng Tăng.”
Bấy giờ, vua lại hỏi vị quan bên cạnh:
– Ai là vua Diêm-phù-đề?
Vị quan tâu vua:
– Chính là Đại vương vậy.
Nhà vua từ giường gượng ngồi lên nhìn khắp bốn phương, chắp tay làm lễ cảm niệm ân đức của chư Phật, tâm nghĩ miệng nói: “Nay ta đem Diêm-phù-đề này bố thí cho Tam bảo, tùy ý sử dụng.” Và vua nói kệ:
Nay, Diêm-phù-đề này
Có rất nhiều của báu
Bố thí ruộng phước lành
Quả báo tự nhiên được
Đem công đức bố thí
Chẳng cầu trời Đế-thích
Phạm vương và nhân chủ
Thế giới các diệu lạc.
Những quả báo như thế
Tôi đều chẳng nhận dùng
Do công đức bố thí
Chóng được thành Phật đạo
Được thế gian kính ngưỡng
Thành được Nhất thiết trí
Làm thiện hữu thế gian
Đạo sư tối đệ nhất.
Bấy giờ, vua viết ra tất cả những lời này trên giấy rồi bỏ vào phong bì, dùng răng ấn vào làm dấu ấn. Làm việc này xong, vua từ trần.
Bấy giờ, thái tử cùng các quan, cung thần, thể nữ, nhân dân trong nước dâng các thứ cúng dường, tống táng theo nghi lễ của quốc vương. Lúc ấy, các quần thần muốn lập thái tử kế vị ngôi vua. Trong triều đình có một đại thần tên là A-nậu-lâu-đà, vị này nói với các quan:
– Không được lập thái tử làm vua. Vì sao như thế? Đức Đại vương A-dục còn sanh tiền, vua vốn nguyện đem mười muôn ức vàng làm các công đức, chỉ thiếu bốn ức, chẳng đủ mười muôn. Vì thế nên, ngày nay xả bỏ Diêm-phù-đề cúng cho Tam bảo để làm cho đầy đủ. Bây giờ đất nước này thuộc về Tam bảo, làm sao lập thái tử làm vua được?
Các quan nghe xong đem bốn ức vàng gởi vào chùa, sau đó lập con của Pháp Ích lên ngôi vua tên là Tam-ba-đề. Kế đến Thái tử Tỳ-lê-ha-ba-đề kế vị. Thái tử con của Tỳ-lê-ha-ba-đề tên là Tỳ-lê-ha-tây-na kế vị. Tiếp đến thái tử con của Tỳ-lê-ha-tây-na tên là Phất-sa-tu-ma kế vị. Tiếp đến thái tử con của Phất-sa-tu-ma tên là Phất-sa-mật-đa-la kế vị. Bấy giờ, Phất-sa-mật-đa-la hỏi các quần thần:
– Ta nên làm những việc gì khiến cho danh đức tồn tại lâu dài ở thế gian?
Các vị hiền thần tin ưa Tam bảo tâu vua:
– Đại vương A-dục là vị vua đầu tiên của dòng họ. Khi còn tại thế, vua tạo lập
tám vạn bốn ngàn tháp Như Lai và còn cúng dường đủ thứ. Danh đức này
tuyên truyền cho đến nay. Vua muốn cầu danh đức này nên xây dựng tám
vạn bốn ngàn tháp và cúng dường.
Vua nói rằng:
– Đại vương A-dục có oai đức lớn, có thể lo liệu việc này, còn ta không thể làm được, hãy nghĩ đến việc khác.
Trong đám bầy tôi có một vị quan ác, không lòng tin Tam bảo tâu vua:
– Thế gian này có hai thứ pháp truyền mãi ở đời không mất: Thứ nhất là làm lành, thứ hai là làm ác. Đại vương A-dục đã làm các điều thiện. Ngày nay vua nên làm các điều ác phá hoại tám vạn bốn ngàn tháp.
Nhà vua nghe theo lời của kẻ nịnh thần, liền khởi bốn binh chủng đi thẳng đến chùa chiền phá hủy các ngọn tháp. Trước tiên, vua đến chùa Kê Tước, trước cổng chùa có con sư tử đá, sư tử bỗng rống lên. Vua nghe tiếng rống vô cùng sợ hãi, kinh hoàng: “Chẳng phải sư tử thật mà có thể rống lên ư!” Vua bèn trở vào thành. Như thế ba lần vua muốn phá hoại chùa kia.
Khi ấy, vua gọi các Tỳ-kheo lại hỏi:
– Ta phá hoại tháp là thiện hay là phá hoại Tăng phòng là thiện?
Tỳ-kheo đáp:
– Cả hai điều này đều không nên làm. Nếu vua muốn phá hoại thì thà hoại Tăng phòng, đừng làm hoại tháp Phật.
Bấy giờ, vua sát hại Tỳ-kheo và phá hoại chùa tháp. Như thế dần dần đến nước Bà-già-la tuyên bố sắc lệnh: “Nếu người nào có thể đem đầu Sa-môn Thích tử lại, sẽ được ban thưởng ngàn vàng.”
Đương thời trong nước ấy có một vị A-la-hán hóa ra nhiều đầu Tỳ-kheo cho dân chúng mang đến nơi nhà vua, khiến cho vật báu trong kho tàng của nhà vua đều kiệt tận. Khi vua nghe biết A-la-hán làm như vậy càng thêm sân giận, muốn giết A-la-hán kia. Bấy giờ, vị A-la-hán kia nhập Diệt tận định, vua tìm đủ cách để giết vị Thánh nhân kia, cuối cùng không thể được, vì ngài đã ở trong sức tam-muội diệt tận, nên không bị thương tổn thân thể. Như thế vua tiến dần đến bên cửa tháp Phật. Trong tháp ấy có vị quỷ thần nữ đang ở trong đó giữ gìn tháp Phật tên là Nha Xỉ, vị quỷ thần này nghĩ rằng: “Ta là đệ tử Phật, thọ trì giới cấm, không giết hại chúng sanh, nay ta không thể nào sát hại vua.” Rồi lại nghĩ: “Có một thần tên là Trùng, chuyên làm việc ác, hung bạo, mạnh mẽ, cầu hôn con gái ta, nhưng ta không thuận. Ngày nay, vì giữ gìn Phật pháp, ta sẽ gả con gái cho hắn để khiến hắn thủ hộ Phật pháp.” Nha Xỉ liền gọi vị thần kia bảo:
– Nay ta gả con gái cho người, nhưng cùng giao ước: Người phải hàng phục vị vua này, chớ khiến cho vua này làm điều ác, hoại diệt Chánh pháp. Bấy giờ, vua có một đại quỷ thần tên là Ô Trà, đầy đủ oai đức, nên thần kia chẳng làm gì vua được. Khi thần Nha Xỉ tìm cách hủy diệt, nhưng nay uy thế của nhà vua còn mạnh. Do đó, Nha Xỉ nghĩ rằng: “Ta nay nên dối trá, dụ dỗ làm thân.” Như vậy Nha Xỉ cùng làm bạn với vị thần kia, khi đã biết nhau thân thiết liền đem thần này vào biển lớn ở phương Nam. Sau đó thần Trùng phá dẹp núi lớn, đánh tan vua và bốn binh chủng, tất cả đều bị tiêu diệt. Nhân dân đều reo mừng: “Sướng thay!” Người đời truyền nhau thật là sung sướng. Vị vua kia chết rồi, dòng dõi Khổng Tước từ đây chấm dứt vĩnh viễn.
Vì thế, sự giàu sang, sung sướng ở thế gian không đáng tham. Vua A-dục là người có trí, tỉnh giác cuộc đời vô thường, thân mạng khó giữ gìn, tài vật thuộc năm nhà cũng như huyễn hóa, giác tỉnh điều này, chuyên cần tinh tấn làm các công đức, cho đến khi lâm chung tâm nghĩ nhớ đến Tam bảo, từng niệm nối tiếp, không có gì luyến tiếc, chỉ nguyện rốt ráo thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.