Tam tạng Thánh điển PGVN 20 » Tam tạng Phật giáo Bộ phái 04 »
Hòa Thượng THÍCH THIỆN SIÊU
Hòa Thượng THÍCH THANH TỪ
Bấy giờ, Thế Tôn bảo Tôn giả A-nan:
– Nước Ma-thâu-la này, tương lai sẽ có con của thương nhân tên là Quật-đa. Quật-đa có con tên là Ưu-ba Quật-đa, sau khi Ta diệt độ một trăm năm sẽ làm Phật sự, là bậc nhất trong các Giáo thọ sư. Này A-nan! Thầy có thấy tùng lâm màu xanh đàng xa kia không?
A-nan bạch Phật:
– Vâng, con đã thấy! Bạch Thế Tôn!
– A-nan! Nơi ấy gọi là núi Ưu-lưu-man-trà, sau khi Như Lai diệt độ một trăm năm, tại núi này có Na-tra-bạt-trí-ca là nơi thanh vắng. Nơi này thích hợp bậc nhất với sự tịch mặc im lặng.
Khi ấy, Thế Tôn nghĩ rằng: “Nếu Ta đem giáo pháp của Ta phó chúc cho loài người, e giáo pháp của Ta không được tồn tại lâu dài; nếu phó chúc cho loài trời, e giáo pháp của Ta cũng chẳng tồn tại lâu dài, nhân dân ở thế gian chắc chắn sẽ không có người lãnh thọ giáo pháp. Nay Ta sẽ đem Chánh pháp giao phó cho người, trời; chư thiên và người thế gian cùng nhiếp thọ pháp, giáo pháp của Ta sẽ ngàn năm bền vững. Lúc Thế Tôn khởi tâm thế tục, trời Đế-thích và Tứ Thiên Vương biết được tâm niệm của Phật, đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ chân Phật, rồi lui ngồi một bên.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo trời Đế-thích và Tứ Thiên Vương:
– Như Lai không bao lâu sẽ ở nơi Vô dư Niết-bàn mà Bát-niết-bàn. Sau khi Ta Bát-niết-bàn, các ông nên hộ trì Chánh pháp.
Thế Tôn lại bảo Thiên vương phương Đông:
– Ông nên ở phương Đông hộ trì Chánh pháp.
Kế đến Phật bảo Thiên vương phương Nam, phương Tây, phương Bắc:
– Các ông nên ở phương Bắc hộ trì Chánh pháp, qua một ngàn năm sau, lúc giáo pháp của Ta diệt mất, sẽ có những điều phi pháp xuất hiện ở thế gian. Mười điều lành đều tiêu hoại. Trong cõi Diêm-phù-đề gió dữ dấy lên mạnh mẽ, mưa chẳng hợp thời, nhân gian phần nhiều đói kém, bị nạn mưa đá, sông ngòi khô cạn, hoa trái thất mùa. Con người cằn cỗi, không tươi sáng, ổ trùng, thôn quỷ đều bị tiêu diệt hết; thực phẩm thiếu thốn, trân bảo chìm mất. Nhân dân lại ăn cỏ thô nhám. Lúc ấy có Thích-ca vương, Gia-bàn-na vương, Bát-la-bà vương, Đâu-sa-la vương, quyến thuộc đông đảo, đặt đảnh cốt của Như Lai, răng Phật, bát Phật ở phương Đông. Phương Tây có vua tên là Bát-la-bà, trăm ngàn quyến thuộc phá hoại chùa tháp, giết hại Tỳ-kheo. Phương Bắc có vua tên là Gia-bàn na, trăm ngàn quyến thuộc phá hoại chùa tháp, giết hại Tỳ-kheo. Phương Nam có vua tên là Thích-ca, trăm ngàn quyến thuộc phá hoại chùa tháp, giết hại Tỳ kheo. Phương Đông có vua tên là Đâu-sa-la, trăm ngàn quyến thuộc phá hoại chùa tháp, giết hại Tỳ-kheo. Bốn phương đều rối loạn. Các Tỳ-kheo tụ tập ở các nước giữa Diêm-phù-đề. Trong khi ấy, nước Câu-diệm-di có vua tên là Ma nhân-đà-la-tây-na, sanh được một người con, tay đỏ như thoa máu, thân mặc áo giáp, đầu đội mũ trận, có sức dũng mãnh, vào ngày sanh của vương tử này, năm trăm đại thần cũng sanh năm trăm đứa con, đều giống như vương tử, nghĩa là tay đỏ như thoa máu và thân mặc áo giáp, đầu đội mũ trận.
Bấy giờ, nước Câu-diệm-di một ngày đổ mưa máu. Vua Câu-diệm-di thấy tướng ác này vô cùng sợ hãi, vua cho mời thầy tướng. Thầy tướng tâu vua:
“Nhà vua nay sanh con, người con này sẽ là vua cõi Diêm-phù-đề, sát hại nhiều người, sanh được bảy ngày, vua đặt tên là Nan Đương, khi tuổi dần khôn lớn, bốn vua ác từ bốn phương đến sát hại nhân dân.”
Vua Ma-nhân-đà-la-tây-na nghe như vậy vô cùng sợ hãi.
Bỗng có thiên thần đến báo vua:
“Đại vương cứ lập Nan Đương làm vua, đủ khả năng để hàng phục bốn vua hung ác kia.”
Vua Ma-nhân-đà-la-tây-na theo lời thiên thần dạy liền nhường ngôi cho con, lấy hạt châu sáng trong búi tóc đội trên đầu con mình. Tập hợp các đại thần dùng nước thơm rưới đảnh, triệu tập những người con cùng sanh một ngày của năm trăm đại thần, thân mặc áo giáp, đầu đội mũ trận, theo vua ra trận, đánh nhau với bốn vua hung ác và chiến thắng giết hại hết sạch, làm vua Diêm-phù đề, cai trị nước Câu-diệm-di.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo Tứ Đại Thiên Vương:
– Ở tại nước Ba-liên-phất, sẽ có Bà-la-môn tên là Kỳ-ni-đạt-đa, thông đạt kinh luận Vệ-đà, Bà-la-môn này cưới vợ; thời gian sau thân trung ấm chúng sanh sẽ đến làm con. Lúc vào bào thai mẹ, người mẹ rất thích luận nghị với người khác. Bà-la-môn này đến hỏi thầy tướng, thầy tướng đáp: “Đứa trẻ trong bào thai sẽ thông suốt tất cả luận thuyết cho nên khiến bà mẹ sanh tâm ưa luận nghị với người như vậy.” Khi đủ tháng ngày được sanh ra khỏi thai mẹ, trở thành đứa bé thông đạt tất cả kinh luận, thường đem kinh luận dạy cho năm trăm người con Bà-la-môn, cùng với các thứ luận khác dạy cho những người khác, đem y phương dạy người học nghề thuốc, nên có được nhiều đệ tử như vậy. Vì có đông đệ tử nên gọi là “Đệ Tử.” Sau đó, thiếu niên ấy xin cha mẹ xuất gia học đạo, cha mẹ bằng lòng cho xuất gia. Thiếu niên ấy ở trong pháp của Ta xuất gia học đạo, thông suốt ba tạng, khéo hay thuyết pháp, biện tài xảo diệu, ngôn ngữ đàm thuyết thu phục rất nhiều quyến thuộc.
Lại nữa, Thế Tôn bảo Tứ Đại Thiên Vương:
– Ở ấp Ba-liên-phất này sẽ có một đại thương chủ tên là Tu-đà-na, chúng sanh trung ấm đi vào thai mẹ, khi chúng sanh này vào thai sẽ khiến cho người mẹ chất trực, nhu hòa, không tà tưởng, các căn tịch tịnh. Thương chủ đến hỏi thầy tướng, thầy tướng đáp rằng: “Chúng sanh trong thai rất lương thiện, nên khiến cho người mẹ như vậy, cho đến các căn tịch tịnh.” Đủ ngày tháng đứa bé chào đời, được đặt tên là Tu-la-đà, sau đó đứa bé theo năm tháng lớn dần. Ngày nọ, thiếu niên ấy xin phép cha mẹ xuất gia học đạo, cha mẹ đều tán thành. Thiếu niên này ở trong pháp của Ta xuất gia học đạo, siêng năng tinh tấn, tu tập đạo nghiệp, liền được lậu tận, chứng quả A-la-hán, nhưng ít học, ít muốn, biết đủ và ít biết, nương náu nơi rừng sâu núi thẳm. Núi tên là Kiền-đà-ma-la. Vị Thánh nhân này thường đến thuyết pháp cho Vua Nan Đương. Vua cha sắp từ trần, Nan Đương thấy cha qua đời, hai tay ôm lấy thi hài của cha khóc nức nở, đau buồn thảm thiết. Lúc bấy giờ vị Pháp sư Tam tạng kia đem theo nhiều quyến thuộc đi đến chỗ vua, vì vua thuyết pháp. Vua nghe pháp xong vơi bớt sầu não, ở trong Phật pháp sanh lòng tin kính và phát lời tuyên bố:
“Từ nay về sau, ta sẽ bố thí cho các Tỳ-kheo không e sợ, hợp ý là vui sướng.”
Rồi vua hỏi Tỳ-kheo:
“Bốn vị vua bạo ác trước kia hủy diệt Phật pháp đã bao nhiêu năm?”
Tỳ-kheo đáp:
“Trải qua mười hai năm.”
Nhà vua vừa suy nghĩ vừa nói to dõng dạc như sư tử rống:
“Trong mười hai năm ta sẽ cúng dường năm chúng cho đến sắm sửa các thứ để bố thí.”
Ngày vua bố thí trời sẽ đổ mưa thơm khắp Diêm-phù-đề, tất cả các cây giống đều được tăng trưởng, dân chúng các phương đều mang đến nước Câu diệm-di cúng dường chúng Tăng. Các Tỳ-kheo được cúng dường nhiều, các Tỳ-kheo ăn của tín thí mà chẳng đọc tụng kinh điển, chẳng siêng năng vì người học kinh, hý luận qua ngày, ngủ nghỉ suốt đêm, tham đắm lợi dưỡng, ưa trang sức, thân mặc y phục đẹp, xa lìa lý tưởng giải thoát là xuất gia tịch tịnh, với niềm vui tỉnh giác. Hình giống Tỳ-kheo mà lìa bỏ công đức của người tu hành, đây là kẻ giặc dữ trong Phật pháp, trợ lực làm hư hoại ngọn cờ Chánh pháp trong đời sau, dựng cờ Ác ma, diệt tắt ngọn đuốc Chánh pháp, thắp lên ngọn lửa phiền não phá hoại trống Chánh pháp, hủy hoại bánh xe Chánh pháp, làm tiêu mất biển Chánh pháp, làm hoại núi Chánh pháp, phá thành Chánh pháp, nhổ cây Chánh pháp, hủy hoại trí tuệ thiền định, cắt đứt chuỗi ngọc giới hạnh, làm hoen ố chánh đạo. Lúc ấy trời, rồng, quỷ, thần, dạ-xoa, càn-thát-bà đối với các Tỳ-kheo này sanh ác ý, mắng chửi các Tỳ-kheo, chán ghét, xa lìa, chẳng gần gũi. Mọi người cũng thốt lời than thở: “Tỳ-kheo tệ ác như thế chẳng nên được ở trong pháp của Như Lai.” Rồi họ nói kệ:
Ác hạnh, hạnh không tốt
Làm các việc tà kiến
Các kẻ ngu si này
Phá hoại núi Chánh pháp
Làm các điều ác giới
Bỏ các hạnh như pháp
Xả các pháp tốt đẹp
Trừ Phật pháp hiện thời
Chẳng tin, chẳng điều phục
Ưa làm các việc ác
Trá ngụy lừa thế gian
Hủy hoại Chánh pháp ta.
Bấy giờ, các vị trời, rồng, thần đều sanh tâm không hoan hỷ, không còn ủng hộ các Tỳ-kheo và đồng thanh tuyên bố: “Phật pháp sau bảy ngày nữa diệt tận.” Rồi buồn khóc kêu gào và bảo nhau: “Đến ngày Tỳ-kheo nói giới, Tỳ kheo cùng nhau tranh cãi, Chánh pháp Như Lai vì thế mà diệt mất.” Thế rồi, các vị trời buồn rầu khóc lóc. Trong khi ấy tại thành Câu-diệm-di có năm trăm vị ưu-bà-tắc nghe lời nói của chư thiên cùng nhau đi đến trong chúng Tỳ-kheo, khuyên ngăn các Tỳ-kheo tranh cãi và nói kệ:
Than ôi! Khổ vô cùng
Nghĩ thương xót quần sanh
Pháp Phật nay sắp diệt
Thích Sư tử vương pháp
Ác luân hoại pháp luân
Như thế tận kim cương
Mới có thể chẳng hoại.
Thời an ổn đã dứt
Pháp nguy hiểm đã khởi
Bậc minh trí đã qua
Nay thấy tướng như thế
Nên biết chẳng bao lâu
Pháp Mâu-ni đoạn diệt
Thế gian không sáng nữa
Lìa nhơ, cấu tịch diệt
Mặt trời Mâu-ni lặn.
Thế gian mất che chở
Thiện ác không sai biệt
Thiện ác chẳng phân rồi
Ai sẽ đắc Chánh pháp
Đèn pháp nay ở đời
Gặp lúc làm điều thiện
Các ruộng phước vô lượng,
Pháp này nay sẽ diệt
Vì thế bọn chúng tôi
Biết của cải chẳng bền
Kịp thời giữ bền chắc.
Đến ngày mười lăm khi thuyết giới, Chánh pháp sẽ diệt. Ngày ấy năm trăm vị ưu-bà-tắc này nội trong một ngày tạo năm trăm tháp Phật trong khi những ưu-bà-tắc khác mỗi người bận việc khác không đi tới lui trong chúng Tăng. Bấy giờ, trong núi Kiền-đà-ma-la, A-la-hán Tu-đà-la đang ẩn náu, ngài quán sát Diêm-phù-đề hôm nay nơi nào có chúng Tăng nói giới, ngài thấy có nước Câu-diệm-di, đệ tử của Như Lai thuyết giới vào ngày Bố-tát. Ngài liền đi đến Câu-diệm-di. Tăng chúng lúc ấy có đến trăm ngàn người, trong đó chỉ có một vị A-la-hán tên là Tu-la-tha, lại có một vị Tam tạng tên là Đệ Tử. Đây là buổi tập hợp đại chúng cuối cùng của Như Lai. Bấy giờ, Duy-na phát thẻ kiểm điểm số chúng, bạch Thượng tọa Tam tạng rằng:
“Chúng Tăng đã họp, có một trăm ngàn người hôm nay để nói Giới bổn.”
Thượng tọa đáp:
“Ở Diêm-phù-đề, đệ tử Như Lai đều tụ tập nơi này, số đến trăm ngàn. Như thế trong chúng này ta là bậc Thượng thủ, thông suốt tam tạng, còn chẳng học giới luật, huống chi người khác mà có điều phải học. Nay nên vì ai nói giới luật.”
Và Thượng tọa nói kệ:
Nay là ngày mười lăm
Đêm lặng trăng trong sáng
Như thế các Tỳ-kheo
Nhóm lại nghe thuyết giới.
Tất cả Diêm-phù-đề
Chúng Tăng nhóm lần cuối
Ta đứng đầu trong chúng
Chẳng học giới Luật, Pháp
Huống là Tăng chúng khác
Mà có chỗ học tập
Đâu thể pháp Mâu-ni
Thích-ca sư tử vương
Giới kia ai có trì
Người ấy mới nên nói.
Ngay lúc đó, A-la-hán Tu-la-tha đứng trước Thượng tọa, chắp tay thưa Thượng tọa:
“Thưa Thượng tọa! Chỉ nói Giới bổn như khi Phật còn tại thế, Tôn giả Xá lợi-phất, Mục-kiền-liên và chúng Tăng đại Tỳ-kheo những pháp học tôi đều đã học. Như Lai tuy diệt độ đến nay đã ngàn năm, các luật nghi do Ngài chế định tôi đã được học đầy đủ.
Và Tôn giả nói kệ:
Thượng tọa nghe tôi nói
Tôi tên Tu-la-tha
A-la-hán lậu tận
Sư tử rống trong chúng
Thật đệ tử Mâu-ni
Tin Phật, các quỷ thần
Nghe lời bậc Thánh nói
Buồn bã đến rơi lệ
Cúi đầu nghĩ pháp diệt
Từ nay đến sau này
Không có người thuyết pháp
Tỳ-ni biệt giải thoát
Chẳng còn ở thế gian.
Cây cầu pháp nay hoại
Dòng nước pháp ngừng chảy
Biển pháp đã khô kiệt
Núi pháp đã sụp đổ
Pháp hội từ nay bặt
Cờ pháp chẳng thấy nữa
Chân pháp không còn đi
Giới luật nghi hằng mất
Đèn pháp không còn chiếu
Xe pháp không còn chuyển
Lấp kín cửa cam lộ
Pháp sư chẳng tại thế
Người lành nói diệu đạo
Chúng sanh chẳng biết thiện
Chẳng khác gì dã thú.
Bấy giờ, Phật mẫu Ma-ha Ma-gia Phu nhân từ cõi trời xuống nhân gian, đến nơi chúng Tăng kêu khóc than thở thảm não: “Chính là con ta đã trải qua a-tăng kỳ kiếp tu các khổ hạnh chẳng sá gì lao khổ thân thể, tích đức thành Phật, ngày nay bỗng nhiên tiêu diệt.” Và Phu nhân nói kệ:
Tôi là mẹ của Phật
Con tôi tu khổ hạnh
Trải qua vô số kiếp
Cứu cánh thành chơn đạo.
Buồn khóc không xiết kể
Nay pháp bỗng diệt mất.
Than ôi! Bậc trí tuệ
Nay đã ở nơi đâu?
Trì pháp bỏ tranh tụng
Từ miệng Phật sanh ra
Các vua vô thượng tôn
Chân thật đệ tử Phật
Tu diệu hạnh Đầu-đà
Nương náu giữa rừng sâu
Chơn Phật tử như thế
Ngày nay ở nơi đâu?
Người nay ở thế gian
Không có các uy đức
Giữa núi rừng hoang vắng
Chư thần đều im lặng
Thí giới thương quần sanh
Tín giới tự trang nghiêm
Hạnh chất trực, nhẫn nhục
Quán sát các thiện ác
Như thế các thắng pháp
Nay chợt mất hết cả.
Lúc ấy, Thượng tọa Đệ Tử nghĩ thầm: “Tỳ-kheo Tu-la-tha nói các giới luật Như Lai chế định, tôi đều giữ gìn đầy đủ.” Thượng tọa Đệ Tử có người đệ tử tên là An-già-đà khởi tâm bất nhẫn, tức giận cực độ, từ chỗ ngồi đứng lên mạ nhục vị Thánh kia: “Thầy là Tỳ-kheo hạ tọa ngu si, vô trí, lại dám hủy nhục Hòa thượng của ta?” Nói xong, người ấy liền lấy dao bén giết chết vị Thánh kia và nói kệ:
Ta tên An-già-đà
Đệ tử của Thất-sa
Kiếm báu giết chết người
Tự nói mình có đức.
Trong khi đó có một con quỷ tên là Đại Đề-mộc-khư, suy nghĩ: “Thế gian chỉ có một vị A-la-hán này lại bị đệ tử của Tỳ-kheo ác kia làm hại.” Quỷ cầm lấy cái chày bén kim cương, đầu chày rực lửa, dùng chày này đánh vỡ đầu của người kia, người này chết liền. Rồi quỷ nói kệ:
Ta là ác quỷ thần
Tên Đại Đề-mộc-khư,
Dùng chày kim cương này
Phá đầu người bảy phần.
Bấy giờ, đệ tử của vị A-la-hán thấy đệ tử của Thượng tọa kia sát hại thầy mình không dằn được sự phẫn hận, nên giết chết Thượng tọa Tam tạng. Bấy giờ chư thiên, người thế gian đều đau buồn, than khóc khổ não! Chánh pháp của Như Lai ngày nay đều diệt tận. Bỗng nhiên, nơi đây cõi đất chấn động sáu cách, vô lượng chúng sanh kêu gào, khóc lóc vô cùng bi thảm, than thở thống thiết: “Hôm nay Chánh pháp không còn xuất hiện ở thế gian nữa!” Nói như thế xong, mỗi người đều phân tán.
Tại nước Câu-diệm-di, năm trăm ưu-bà-tắc nghe tin này, họ đi vào chùa, giơ tay vỗ đầu, bật khóc thành tiếng to, kể lể, thở than: “Như Lai thương xót thế gian, cứu giúp mọi loài, không phân lớn nhỏ. Ai có thể vì chúng con nói pháp nghĩa? Ngày nay trời, người giải thoát không còn có thể được nữa, chúng sanh hiện nay vẫn ở trong bóng tối, không có người dẫn đường, tập quen các điều ác, lấy đó làm vui như bọn thú rừng, chẳng nghe Diệu pháp của Mâu-ni, lúc thân hư hoại, mạng sống chấm dứt, đọa vào ba đường ác ví như sao rụng. Thế nhân từ nay về sau, không còn Diệu pháp thập lực, tam-muội tịch tịnh niệm tuệ.”
Bấy giờ, vua nước Câu-diệm-di nghe tin các Tỳ-kheo giết chết bậc Chơn nhân A-la-hán và Pháp sư Tam tạng, tâm sanh buồn thảm và hãi hùng ngồi im. Trong khi ấy, bọn tà kiến tranh nhau phá hoại tháp miếu và hãm hại Tỳ-kheo, từ đấy Phật pháp tan tác chóng diệt.
Lúc bấy giờ, Thế Tôn nói với Thích-đề-hoàn-nhơn và bốn Đại Thiên Vương, chư thiên và người thế gian:
– Sau khi Ta diệt độ, tướng pháp diệt tận như đã nói trên, vì thế các người ngày nay không thể không gắng sức tinh tấn, hộ trì Chánh pháp, làm cho Chánh pháp tồn tại lâu dài ở thế gian.
Bấy giờ, chư thiên và người thế gian nghe Phật nói như thế, ai nấy đều tỏ vẻ bi cảm, đưa tay lau nước mắt, cúi đầu đảnh lễ chân Phật, mỗi người tự ra đi.
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.