Viện Nghiên Cứu Phật Học

Quyển 17

 

462. BA CÕI (2)[1]

 

Tôi nghe như vầy:

Một thời, đức Phật ngụ tại vườn Cù-sư-la, thuộc nước Câu-diệm-di.

Bấy giờ, trưởng giả Cù-sư-la đi đến chỗ Tôn giả A-nan, lạy sát chân ngài rồi ngồi sang một bên và thưa:

_ Thưa Tôn giả! Nói về các cõi là gồm những cõi nào?

Tôn giả A-nan bảo trưởng giả Cù-sư-la:

_ Có ba cõi. Đó là cõi Sắc, cõi Vô Sắc và cõi Diệt.

Nếu chúng sanh cõi Sắc,        

Tiến nhập cõi Vô Sắc,

Không biết đến cõi Diệt,[2]     

Thì lại thọ các hữu.[3]

Nếu xa lìa cõi Sắc, 

Cũng không trụ Vô Sắc,

Cõi Diệt, tâm giải thoát,[4]  

Vĩnh viễn lìa sanh tử.

Tôn giả A-nan nói kinh này xong, trưởng giả Cù-sư-la hoan hỷ và tùy hỷ, đảnh lễ rồi ra về.

***

 

Chú thích:

[1] Tựa đề đặt theo nội dung kinh. Tạp. 雜 (T.02. 0099.462. 0118a20).

[2] Nguyên tác: Diệt giới (滅界, Nirodhadhātu). Ở đây, “không biết đến cõi Diệt” nghĩa là dù đạt định cao nhất của cõi Vô Sắc là Phi tưởng phi phi tưởng, nhưng nếu “không thấy bởi trí tuệ” thì vẫn chưa đạt Câu giải thoát nên vẫn còn lậu hoặc, vô minh. Do còn vô minh mới đưa đến ái, thủ (hữu dư) và hữu, chứ không đưa đến cõi Diệt. Tham chiếu: A-thấp-bối kinh 阿濕貝經 (T.01. 0026.195. 0749c01).

[3] Nguyên tác: Thọ chư hữu (受諸有): Chịu sự luân hồi sanh tử trong 3 cõi.

[4] Nguyên tác: Diệt giới tâm giải thoát (滅界心解脫, Nirodhe ye vimuccanti).

 

 

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.