Tam tạng Thánh điển PGVN 21 » Tam tạng Phật giáo Bộ phái 05 »
TRUNG TÂM DỊCH THUẬT TRÍ TỊNH
QUYỂN 14
Tôi nghe như vầy:
Một thời, đức Phật ngụ tại Trúc Lâm, vườn Ca-lan-đà, thuộc thành Vương Xá.
Đức Phật và chúng đệ tử41 được các hàng quốc vương, đại thần, Bà-la-môn, trưởng giả, cư sĩ và những hạng người khác ở thế gian cung kính, tôn trọng, cúng dường nên được nhiều lợi dưỡng như y phục, thức ăn uống, giường nằm, thuốc men; còn đối với chúng ngoại đạo tà giáo thì họ chẳng hề cung kính, tôn trọng nên không cúng dường y phục, thức ăn uống, giường nằm, thuốc men.
Bấy giờ, có rất nhiều ngoại đạo tụ họp tại giảng đường Vị Tằng rồi cùng nhau bàn luận:
_ Từ xưa đến nay, chúng ta thường được quốc vương, đại thần, trưởng giả, cư sĩ và tất cả những người khác phụng sự, cung kính, cúng dường y phục, thức ăn uống, giường nằm, thuốc men, nhưng nay đều bị cắt đứt tất cả, vì họ chỉ cung kính, cúng dường y phục, thức ăn uống, giường nằm, thuốc men cho Sa-môn Cù-đàm và đại chúng đệ tử. Nay trong chúng đây, người nào có trí tuệ, có oai lực, khéo bí mật vào trong chúng của Sa-môn Cù-đàm để xuất gia, nghe pháp của Sa-môn Cù-đàm rồi trở về giảng nói rộng rãi. Chúng ta sẽ sử dụng pháp được nghe ấy để giáo hóa quốc vương, đại thần, trưởng giả, cư sĩ, khiến họ tin tưởng sâu sắc, để họ có thể quay trở lại cúng dường chúng ta như trước.
Lúc ấy, có người bảo:
_ Có một thiếu niên tên là Tu-thâm,[2] thông minh, trí sáng, có thể lẻn vào trong chúng của Sa-môn Cù-đàm xuất gia, nghe pháp của Cù-đàm xong rồi trở về trình bày lại.
Bấy giờ, các ngoại đạo liền đi đến chỗ Tu-thâm và bảo:
_ Hôm nay, chúng tôi đã nhóm họp đại chúng tại giảng đường Vị Tằng rồi bàn luận như vầy: “Từ trước đến nay, chúng ta được quốc vương, đại thần, trưởng giả, cư sĩ và mọi người ở thế gian cung kính, phụng sự, cúng dường y phục, thức ăn uống, giường nằm và thuốc men, nhưng nay bị họ cắt đứt tất cả. Quốc vương, đại thần, trưởng giả, cư sĩ và mọi người đều cùng nhau phụng sự Sa-môn Cù-đàm và đại chúng đệ tử. Trong đại chúng của ta đây, ai là người thông minh, trí sáng, có thể bí mật vào trong chúng Sa-môn Cù-đàm xuất gia, học đạo, nghe pháp của Sa-môn Cù-đàm rồi trở về trình bày lại, giáo hóa quốc vương, đại thần, trưởng giả, cư sĩ để chúng của ta được cung kính, tôn trọng, cúng dường trở lại?” Trong chúng có người nói rằng: “Chỉ có Tu-thâm là người thông minh, trí sáng, có thể bí mật đến trong pháp của Cù-đàm xuất gia, học đạo, nghe Cù-đàm thuyết pháp thì chắc chắn có thể lãnh hội rồi trở về trình bày lại.” Do vậy, chúng tôi cùng nhau đến đây thỉnh cầu. Xin Nhân giả hãy nhận lời!
Bấy giờ, Tu-thâm im lặng nhận lời thỉnh cầu rồi đến Trúc Lâm, vườn Calan-đà, thuộc thành Vương Xá.
Lúc ấy, có nhiều Tỳ-kheo rời khỏi phòng, đi kinh hành nơi đất trống.
Thế rồi, Tu-thâm liền đến chỗ các Tỳ-kheo ấy và nói như vầy:
_ Thưa các Tôn giả! Hôm nay, con có được phép xuất gia, thọ giới Cụ túc và tu tập Phạm hạnh ở trong Chánh pháp hay không?
Bấy giờ, các Tỳ-kheo liền dẫn Tu-thâm đến chỗ Thế Tôn, lạy sát chân Phật, đứng qua một bên rồi bạch:
_ Bạch đức Thế Tôn! Hôm nay, ngoại đạo Tu-thâm này cầu xin được ở trong Chánh pháp xuất gia, thọ giới Cụ túc và tu tập Phạm hạnh.
Lúc ấy, Thế Tôn biết rõ những suy nghĩ trong tâm của ngoại đạo Tu-thâm, liền bảo các Tỳ-kheo:
_ Các thầy nên độ cho ngoại đạo Tu-thâm được xuất gia.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo giúp cho Tu-thâm xuất gia.
Nửa tháng trôi qua. Một hôm, có vị Tỳ-kheo nói với Tu-thâm:
_ Tu-thâm nên biết! Chúng tôi đã chấm dứt sanh tử, Phạm hạnh đã được thành tựu, việc cần làm đã làm xong, tự biết không còn tái sanh nữa.
Lúc ấy, Tu-thâm hỏi thầy Tỳ-kheo:
_ Thưa Tôn giả! Có phải tu tập ly dục, ly bất thiện pháp, có giác có quán, có hỷ lạc do ly dục sanh, chứng đắc Thiền thứ nhất, là không còn khởi các phiền não, tâm được giải thoát hoàn toàn?[3]Tỳ-kheo đáp:
_ Này Tu-thâm, chẳng phải như thế!
Tu-thâm lại hỏi:
_ Có phải tịnh trừ giác và quán, nội tĩnh nhất tâm, không giác không quán, có hỷ và lạc do định sanh, chứng đắc Thiền thứ hai, là không còn khởi các phiền não, tâm được giải thoát hoàn toàn?
Tỳ-kheo đáp:
_ Này Tu-thâm, chẳng phải như thế!
Tu-thâm lại hỏi:
_ Phải chăng Tôn giả đã ly hỷ, an trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm lạc thọ, điều mà bậc Thánh gọi là xả niệm an trú lạc, chứng đắc Thiền thứ ba, là không còn khởi các phiền não, tâm được giải thoát hoàn toàn?
_ Này Tu-thâm, chẳng phải như thế!
Lại hỏi:
_ Phải chăng Tôn giả đã buông bỏ cả khổ và vui, diệt trừ ưu và hỷ quá khứ, không khổ không vui, xả và niệm đều thanh tịnh, chứng đắc Thiền thứ tư, là không còn khởi các phiền não, tâm được giải thoát hoàn toàn?
Tỳ-kheo đáp:
_ Này Tu-thâm, chẳng phải như thế!
Lại hỏi:
_ Nếu được tịch tịnh giải thoát, vượt thoát khỏi Sắc và Vô Sắc, tự thân chứng đắc và an trú thì không còn khởi các phiền não, tâm được giải thoát hoàn toàn chăng?
Tỳ-kheo đáp:
_ Này Tu-thâm, chẳng phải như thế!
Tu-thâm lại hỏi:
_ Cớ sao lời nói của Tôn giả chẳng đồng nhất, trước sau trái ngược nhau? Vì sao Tôn giả chưa chứng đắc thiền định mà lại xác nhận như thế?
Tỳ-kheo đáp:
_ Tôi đã được tuệ giải thoát.
Nói những lời như thế xong, các Tỳ-kheo đều rời chỗ ngồi mà đi.
Bấy giờ, biết số đông Tỳ-kheo đi rồi, Tu-thâm suy nghĩ như vầy: “Lời nói của các Tôn giả này chẳng đồng nhất, trước sau trái ngược nhau, họ nói không đạt được chánh định, nhưng lại xác nhận tự thân chứng đắc.”
Suy nghĩ như thế rồi, Tu-thâm liền đi đến chỗ Phật, lạy sát chân Ngài rồi đứng qua một bên và thưa:
_ Bạch đức Thế Tôn! Các Tỳ-kheo kia xác nhận trước mặt con: “Chúng tôi đã chấm dứt sanh tử, Phạm hạnh đã được thành tựu, việc cần làm đã làm xong, tự biết không còn tái sanh nữa.”
Con liền hỏi Tôn giả kia: “Đã lìa bỏ dục và các pháp bất thiện,... (cho đến) tự thân chứng đắc và an trú thì không còn khởi các phiền não, tâm được giải thoát hoàn toàn chăng?”
Vị ấy trả lời: “Này Tu-thâm, chẳng phải như vậy!”
Con liền hỏi: “Sao lời nói của Tôn giả trước sau trái ngược nhau, bảo là không đạt được chánh định nhưng lại xác nhận là tự thân đã chứng đắc?”
Vị ấy đáp rằng: “Tôi đạt được tuệ giải thoát.”
Nói như thế xong, các vị đều rời khỏi tòa rồi ra về.
Hôm nay, con kính hỏi Thế Tôn: “Cớ sao lời nói của Tỳ-kheo kia chẳng đồng nhất, trước sau trái ngược nhau, không đạt được chánh định, nhưng lại nói tự thân đã chứng đắc?”
[0097b05] Phật bảo Tu-thâm:
_ Các vị ấy trước tiên là biết pháp trụ,[4] sau đó biết Niết-bàn. Các thiện nam ấy một mình ở nơi thanh vắng, chuyên cần tư duy, sống không buông lung, xa lìa kiến chấp về ngã, chẳng khởi các phiền não, tâm được giải thoát hoàn toàn.
Tu-thâm bạch Phật:
_ Con không thể hiểu thế nào là: “Trước tiên biết pháp trụ, sau đó biết Niết-bàn. Các thiện nam ấy một mình ở nơi thanh vắng, chuyên cần tư duy, sống không buông lung, xa lìa kiến chấp về ngã, chẳng khởi các phiền não, tâm được giải thoát hoàn toàn.”
Phật bảo Tu-thâm:
_ Ta không hỏi ông biết hay không biết, mà tự mình trước tiên phải biết pháp trụ, sau đó biết Niết-bàn. Các thiện nam ấy một mình ở nơi thanh vắng, chuyên cần tư duy, sống không buông lung, xa lìa kiến chấp về ngã, tâm được giải thoát hoàn toàn.
Tu-thâm bạch Phật:
_ Cúi xin Thế Tôn giảng nói pháp khiến cho con biết được trí pháp trụ[5] và thấy được trí pháp trụ!
Phật dạy Tu-thâm:
_ Nay Ta hỏi, ông hãy tùy ý mà trả lời. Này Tu-thâm! Ông nghĩ như thế nào? Vì có sanh cho nên có già chết, không phải lìa sanh mà có già chết đúng không?
Tu-thâm trả lời:
_ Đúng thế! Bạch đức Thế Tôn! Vì có sanh nên mới có già chết, không thể lìa sanh mà có già chết.
_ Cũng như đối với sanh, đối với hữu, thủ, ái, thọ, xúc, sáu nhập xứ, danh sắc, thức, hành và vô minh cũng thế. Do có vô minh nên có hành, không phải lìa vô minh mà có hành đúng không?
Tu-thâm bạch Phật:
_ Đúng thế, bạch đức Thế Tôn! Vì có vô minh nên có hành, không thể lìa vô minh mà có hành.
Phật bảo Tu-thâm:
_ Vì không có sanh nên không có già chết; không thể lìa sự diệt của sanh mà già chết diệt đúng không?
Tu-thâm bạch Phật:
_ Đúng thế, bạch đức Thế Tôn! Do không có sanh nên không có già chết; không thể lìa sự diệt của sanh mà già chết diệt.
Cũng vậy,... (cho đến) không có vô minh nên không có hành; không thể lìa sự diệt của vô minh mà hành diệt đúng không?
Tu-thâm bạch Phật:
_ Đúng thế, bạch đức Thế Tôn! Do không có vô minh nên không có hành, không thể lìa sự diệt của vô minh mà hành diệt.
Phật bảo Tu-thâm:
_ Người có cái biết như thế, cái thấy như thế, phải chăng là đã lìa dục, lìa pháp ác, bất thiện... (cho đến) tự thân chứng đắc và an trú phải không?
Tu-thâm bạch Phật:
_ Chẳng phải như thế, bạch đức Thế Tôn!
[0097c01] Phật bảo Tu-thâm:
_ Đây gọi là trước tiên biết pháp trụ, sau đó biết Niết-bàn. Các thiện nam ấy một mình ở nơi thanh vắng, chuyên cần tư duy, sống không buông lung, xa lìa kiến chấp về ngã, chẳng khởi các phiền não, tâm được giải thoát hoàn toàn.
Đức Phật nói kinh này xong, Tôn giả Tu-thâm liền xa lìa trần cấu, được pháp nhãn tịnh. Bấy giờ, Tu-thâm thấy pháp, đắc pháp, ngộ pháp, vượt nghi, không tin ai khác, không do ai khác mà được độ thoát, ở trong Chánh pháp được vô sở úy, liền cúi đầu lạy sát chân Phật rồi thưa:
_ Bạch đức Thế Tôn! Hôm nay, cho con xin sám hối! Vì con giả dạng xuất gia ở trong Chánh pháp, vậy nên con xin sám hối.
Phật bảo Tu-thâm:
_ Vì sao lại giả dạng xuất gia ở trong Chánh pháp?
Tu-thâm bạch Phật:
_ Bạch đức Thế Tôn! Có rất nhiều ngoại đạo đến nói với con: “Tu-thâm nên biết! Trước đây, chúng ta được quốc vương, đại thần, trưởng giả, cư sĩ và mọi người trong thế gian đều cung kính, cúng dường mà nay bị cắt đứt, bởi vì họ đều cúng dường cho Sa-môn Cù-đàm và đại chúng đệ tử. Hôm nay, ông hãy giả dạng đến trong chúng đệ tử của Sa-môn Cù-đàm mà xuất gia, học hỏi giáo pháp, lãnh hội pháp ấy rồi trở về trình bày lại, chúng ta sẽ đem pháp đã nghe để giáo hóa cho thế gian, khiến cho họ cung kính, cúng dường như trước.” Bạch Thế Tôn! Vì thế mà con đã giả dạng xuất gia ở trong Giáo pháp và Giới luật. Hôm nay, cho con xin sám hối. Kính xin Thế Tôn thương xót cho con được sám hối.
Phật bảo Tu-thâm:
_ Ta nhận sự sám hối của thầy. Thầy nên nói đầy đủ như vầy: “Ngày trước, vì do ngu si, bất thiện, thiếu trí nên con đã giả dạng xuất gia ở trong Giáo pháp và Giới luật, hôm nay con xin sám hối, tự mình thấy tội, tự mình biết tội.” Vậy thì đời sau sẽ thành tựu sự phòng hộ, công đức tăng trưởng, không hề giảm thiểu. Vì sao như vậy? Hễ người có tội mà tự mình thấy, tự mình biết và sám hối thì ở đời sau sẽ thành tựu sự phòng hộ, công đức tăng trưởng, không hề giảm thiểu.
Phật bảo Tu-thâm:
_ Nay Ta sẽ nói ví dụ, người có trí nhờ ví dụ này mà được hiểu. Ví như nhà vua có người tuần canh, bắt được kẻ trộm cướp rồi trói lại, dẫn đến chỗ nhà vua và tâu:
“Tâu Đại vương! Kẻ này là giặc cướp, xin Đại vương xử tội.” Vua truyền lệnh:
“Hãy đem tội nhân đi, trói ngược hai tay rồi bêu danh xấu khắp cả nước, sau đó đem tội nhân ra khỏi kinh thành, đến chỗ hành hình, dùng trăm mũi giáo nhọn đâm khắp thân thể tội nhân.”
Tuân lệnh vua, người chấp pháp bắt tội nhân kia trói ngược hai tay, bêu danh xấu khắp các thành ấp rồi dẫn ra ngoài thành, dùng trăm mũi giáo nhọn đâm khắp thân thể tội nhân.
Đến trưa, nhà vua hỏi: “Tội nhân còn sống không?” Cận thần đáp:
“Vẫn còn sống.”
Vua lại ra lệnh cho cận thần:
“Đâm thêm một trăm mũi giáo nữa.”
Đến chiều, tên tội nhân kia lại bị đâm thêm một trăm mũi giáo, nhưng vẫn chưa chết.
Phật hỏi Tu-thâm:
_ Vua kia trị phạt, dùng ba trăm mũi giáo đâm vào thân tội nhân kia thì còn có chỗ nào lành lặn bằng bàn tay không?
Tu-thâm bạch Phật:
_ Thưa không, bạch đức Thế Tôn!
Phật lại hỏi Tu-thâm:
_ Lúc bị ba trăm mũi giáo đâm vào thân, phải chăng tội nhân đã chịu đau đớn tột cùng?
Tu-thâm bạch Phật:
_ Kính bạch Thế Tôn! Đau đớn tột cùng. Bị đâm một giáo, đã rất đau đớn, huống ba trăm mũi làm sao chịu được?
Phật bảo Tu-thâm:
_ Tuy nhiên khổ này vẫn chịu đựng được. Còn như người nào ở trong Giáo pháp và Giới luật giả dạng xuất gia, lén học giáo pháp rồi giảng cho người sẽ chịu khổ hơn tội nhân kia gấp rất nhiều lần.
Lúc đức Phật nói pháp này rồi, ngoại đạo Tu-thâm dứt sạch hết phiền não, tâm được giải thoát.
Đức Phật nói kinh này xong, Tôn giả Tu-thâm vâng lời Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
***
Chú thích:
[1] Tựa đề đặt theo nội dung kinh. Tạp. 雜 (T.02. 0099.347. 0096b25). Tham chiếu: Ma-ha Tăng-kỳ luật 摩訶僧祇律 (T.22. 1425.17. 0359b06); S. 12.70 - II. 119. 41 Nguyên tác: Thanh văn (聲聞).
[2] Tu-thâm (須深, Susīma).
[3] Nguyên tác: Thiện giải thoát (善解脫, suvimutta). Xem chú thích 54, kinh số 22, quyển 1, tr. 19; Tạp. 雜 (T.02. 0099.22. 0004c20).
[4] Pháp trụ (法住, Dhammaṭṭhitatā): Sự an trú trong duyên pháp và duyên khởi. Chú giải Paccayasuttavaṇṇanā (S. II.25): Paccayena hi paccayuppannā dhammā tiṭṭhanti, tasmā paccayova ‘‘dhammaṭṭhitatā’’ti vuccati (Vì an trú trong duyên pháp và duyên khởi, nên được gọi là pháp trụ (dhammaṭṭhitatā). Tham chiếu: S. 12.70: “Pubbe kho, susima, dhammaṭṭhitiñāṇaṃ, pacchā nibbāne ñāṇa”nti (trước hết là trí về pháp trú, sau là trí về Niết-bàn), HT. Thích Minh Châu dịch.
[5] Pháp trụ trí (法住智), theo nội dung kinh này và cũng theo Du-già sư địa luận 瑜伽師地論 (T.30. 1579.10. 0327c19), đó là trí thấy biết đúng như thật về 12 pháp duyên khởi.
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.