Tam tạng Thánh điển PGVN 20 » Tam tạng Phật giáo Bộ phái 04 »
Hòa Thượng THÍCH THIỆN SIÊU
Hòa Thượng THÍCH THANH TỪ
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật trú tại thành Vương Xá, trong Vườn Trúc Ca-lan-đà.
Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:
– Làm thế nào suy nghĩ, quán sát chơn chánh tận khổ, nơi tột cùng mé khổ, khi suy nghĩ về tất cả cái khổ khác nhau của chúng sanh? Các khổ này do nhân gì, tập gì, sanh gì, xúc gì? Suy nghĩ biết rằng, do thủ làm nhân, thủ tập, thủ sanh, thủ xúc. Nếu thủ kia diệt, không còn sót, chắc chắn các khổ kia sẽ diệt, người quán sát như thế được khổ diệt đạo tích; biết như thật tu hành pháp hướng, pháp thứ; đó gọi là Tỳ-kheo dứt sạch khổ, hướng thẳng đến giải thoát, nghĩa là thủ đã diệt. Lại nữa, lúc Tỳ-kheo suy nghĩ, quán sát, muốn dứt sạch khổ, giải thoát, suy nghĩ thủ kia do nhân gì, tập gì, sanh gì, xúc gì. Suy xét thủ ấy do ái làm nhân, ái tập, ái sanh, ái xúc, nếu ái kia diệt hẳn, không còn thì thủ cũng theo đó diệt, người ấy được thủ diệt đạo tích, biết như thật tu hành pháp hướng, pháp thứ; đó gọi là Tỳ-kheo dứt sạch khổ, hướng đến giải thoát, nghĩa là ái diệt.
Lại nữa, Tỳ-kheo suy nghĩ rằng... ái ấy do nhân gì, tập gì, sanh gì, xúc gì. Biết ái là do thọ làm nhân, thọ tập, thọ sanh, thọ xúc, thọ ấy diệt hẳn không còn thì ái diệt. Người ấy được ái diệt đạo tích, biết như thật, tu hành pháp hướng, pháp thứ; đó gọi là Tỳ-kheo dứt sạch khổ, hướng đến giải thoát, nghĩa là thọ diệt.
Lại nữa, này các Tỳ-kheo, lúc suy nghĩ quán sát, muốn dứt khổ, giải thoát, suy nghĩ rằng, thọ ấy do nhân gì, tập gì, sanh gì, xúc gì. Biết thọ kia do xúc làm nhân, xúc tập, xúc sanh, xúc duyên, xúc kia diệt mất không còn sót thì thọ diệt. Người ấy được xúc diệt đạo tích, biết như thật tu tập pháp hướng, pháp thứ; đó gọi là Tỳ-kheo chơn chánh dứt sạch khổ, hướng đến giải thoát. Lại nữa, này các Tỳ-kheo, lúc suy xét hướng đến sự chơn chánh dứt khổ, được giải thoát. Tỳ-kheo lại suy nghĩ rằng xúc ấy do nhân gì, tập gì, sanh gì, xúc gì. Nên biết xúc ấy là do sáu nhập xứ làm nhân, sáu nhập xứ tập, sáu nhập xứ sanh, sáu nhập xứ xúc. Khi sáu nhập xứ kia diệt, không sót thì xúc diệt. Người này được lục xúc nhập xứ diệt đạo tích, biết như thật tu tập pháp hướng, pháp thứ; đó gọi là Tỳ-kheo hướng đến sự chơn chánh dứt sạch khổ, được giải thoát.
Lại nữa, này các Tỳ-kheo, suy xét chơn chánh dứt khổ, được giải thoát. Lúc suy xét sáu nhập xứ kia do nhân gì, tập gì, sanh gì, xúc gì, nên biết sáu nhập xứ kia là do danh sắc làm nhân, danh sắc tập, danh sắc sanh, danh sắc xúc; khi danh sắc kia diệt hết, không còn sót thì sáu nhập xứ diệt. Người ấy được danh sắc diệt đạo tích, biết như thật tu tập pháp hướng, pháp thứ; đó gọi là Tỳ-kheo hướng đến sự chơn chánh dứt sạch khổ, được giải thoát, nghĩa là danh sắc diệt.
Lại nữa, này các Tỳ-kheo, nên suy xét chơn chánh dứt khổ được giải thoát. Lúc suy xét danh sắc do nhân gì, tập gì, sanh gì, xúc gì, biết danh sắc là do thức làm nhân, thức tập, thức sanh, thức xúc; khi thức ấy diệt không còn thì danh sắc diệt. Người ấy được thức diệt đạo tích, biết như thật, tu tập pháp hướng, pháp thứ; đó gọi là Tỳ-kheo hướng đến sự chơn chánh dứt sạch khổ, được giải thoát, nghĩa là thức diệt.
Lại nữa, này các Tỳ-kheo, nên suy xét chơn chánh dứt khổ, được giải thoát. Lúc suy xét, suy lường quán sát về thức kia do nhân gì, tập gì, sanh gì, xúc gì, biết thức ấy là do hành làm nhân, hành tập, hành sanh, hành xúc, làm các phước hạnh, thiện thức sanh, làm những việc không phước, không lành thì thức bất thiện sanh, làm một hành vi trống rỗng, thức trống rỗng sanh. Đó là vì cái thức ấy do hành làm nhân, hành tập, hành sanh, hành xúc; khi hành kia diệt, không còn thì thức diệt. Người ấy được hành diệt đạo tích, biết như thật tu tập pháp hướng, pháp thứ; đó gọi là Tỳ-kheo hướng đến sự chơn chánh dứt sạch khổ, được giải thoát, nghĩa là hành diệt.
Lại nữa, này các Tỳ-kheo, nên suy nghĩ, quán sát về sự chơn chánh dứt khổ, giải thoát. Lúc suy xét hành kia do nhân gì, tập gì, sanh gì, xúc gì, biết hành ấy do vô minh làm nhân, vô minh tập, vô minh sanh, vô minh xúc, các phước hạnh do vô minh làm duyên, phi phước hạnh cũng do vô minh làm duyên, chẳng phải phi phước hạnh cũng do vô minh làm duyên. Do đó nên biết hành kia do vô minh làm nhân, vô minh tập, vô minh sanh, vô minh xúc; khi vô minh hoàn toàn diệt, không còn thì hành kia diệt. Người ấy được vô minh diệt đạo tích, biết như thật, tu tập pháp hướng, pháp thứ; đó gọi là Tỳ-kheo hướng đến sự chơn chánh dứt khổ, được giải thoát, nghĩa là vô minh diệt.
Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Ý các thầy nghĩ sao? Nếu không ưa vô minh mà sanh minh thì còn duyên vô minh ấy làm các hành vi phước hạnh, phi phước hạnh hoặc hành vi trống rỗng chăng?
Các Tỳ-kheo bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn, không vậy! Vì cớ sao? Vì đa văn Thánh đệ tử không ưa vô minh mà sanh minh, vô minh diệt thì hành diệt, hành diệt thì thức diệt, như thế cho đến sanh-già-bệnh-chết-ưu-bi-khổ-não diệt. Như thế, thuần đại khổ tụ diệt.
Phật nói:
– Lành thay! Lành thay! Này các Tỳ-kheo, Ta cũng nói như thế, Tỳ-kheo cũng nên biết điều này, đối với mỗi mỗi pháp kia, khởi mỗi mỗi pháp, sanh mỗi mỗi pháp, diệt mỗi mỗi pháp, dừng diệt, mát mẻ, bặt hết. Nếu đa văn Thánh đệ tử lìa dục vô minh mà sanh minh; về cảm giác giới hạn của thân, khi cảm giác giới hạn của thân biết như thật; về cảm giác giới hạn của mạng sống, khi cảm giác giới hạn của mạng sống biết như thật thì lúc thân hoại, mạng sống chấm dứt, tất cả thọ này đều diệt hết, không còn sót. Ví như người lực sĩ lấy món đồ vật bằng ngói mới nung, còn nóng đặt trên đất, trong chốc lát vật này bị tan hoại, sức nóng cũng tan mất.
Này các Tỳ-kheo, lìa dục vô minh mà sanh minh, cảm giác giới hạn của thân biết như thật, cảm giác giới hạn của mạng sống biết như thật thì khi thân hoại, mạng chung, tất cả thọ này đều diệt, không còn.
Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.