Viện Nghiên Cứu Phật Học

QUYỂN 11

280. BÀ-LA-MÔN THÀNH TẦN-ĐẦU[1]

 

Tôi nghe như vầy:

Một thời, đức Phật du hóa trong nhân gian ở nước Câu-tát-la rồi đến ngụ trong rừng Thân-thứ, phía Bắc thành Tần-đầu.[2]

Bấy giờ, các trưởng giả Bà-la-môn trong thành Tần-đầu đều nghe tin này, họ liền ra khỏi thành, đến rừng Thân-thứ, nơi Phật cư ngụ, cúi lạy sát chân Phật rồi ngồi sang một bên.

Khi ấy, Phật bảo các trưởng giả Bà-la-môn trong thành Tần-đầu:

– Nếu có người hỏi các ông: “Những hạng Sa-môn, Bà-la-môn nào không đáng cung kính, tôn trọng, lễ bái, cúng dường?” Các ông nên trả lời: “Những Sa-môn, Bà-la-môn nào mà mắt thấy sắc nhưng chưa lìa tham, chưa lìa dục, chưa lìa ái, chưa lìa khao khát, chưa lìa nhớ nghĩ, trong tâm không tĩnh lặng, làm những việc phi pháp, làm những việc mờ ám; khi tai nghe âm thanh, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm, ý tiếp xúc các pháp cũng lại như thế. Những hạng Sa-môn, Bà-la-môn[3] như vậy không đáng cung kính, tôn trọng, lễ bái, cúng dường.”

Sau khi trả lời như vậy sẽ có người lại hỏi: “Vì sao những Sa-môn, Bà-lamôn như vậy không đáng cung kính, tôn trọng, lễ bái, cúng dường?” Các ông nên trả lời: “Chúng tôi mắt thấy sắc không lìa dục, không lìa ái, không lìa khao khát, không lìa nhớ nghĩ, trong tâm không tĩnh lặng. Tai, mũi, lưỡi, thân và ý biết pháp cũng như vậy. Những Sa-môn, Bà-la-môn kia mắt thấy sắc cũng không lìa tham, không lìa dục, không lìa ái, không lìa khao khát, không lìa nhớ nghĩ, trong tâm không tĩnh lặng, làm những việc phi pháp, làm những việc mờ ám. Tai, mũi, lưỡi, thân và ý biết pháp cũng như vậy. Tôi tìm kiếm sự khác biệt với những người ấy nhưng không thấy có sự khác biệt gì. Cho nên, tôi với những hạng Sa-môn, Bà-la-môn này giống nhau, do vậy mà tôi không cung kính, tôn trọng, lễ bái, cúng dường.”

Nếu họ lại hỏi: “Vậy những Sa-môn, Bà-la-môn như thế nào mới đáng cung kính, tôn trọng, lễ bái, cúng dường?” Các ông nên trả lời: “Những Sa-môn, Bàla-môn khi mắt thấy sắc mà lìa tham, lìa dục, lìa ái, lìa khao khát, lìa nhớ nghĩ, trong tâm tĩnh lặng, không làm phi pháp, việc làm chuẩn mực, không mờ ám. Đối với tai, mũi, lưỡi, thân và ý cũng như vậy. Những Sa-môn, Bà-la-môn như thế đáng được cung kính, tôn trọng, lễ bái, cúng dường.”

[0077a01] Nếu họ lại hỏi: “Vì sao những Sa-môn, Bà-la-môn như thế được cung kính, tôn trọng, lễ bái, cúng dường?” Các ông nên trả lời: “Chúng tôi mắt thấy sắc không lìa tham, không lìa dục, không lìa ái, không lìa khao khát, không lìa nhớ nghĩ, trong tâm không tĩnh lặng, làm những việc phi pháp, làm những việc mờ ám. Tai, mũi, lưỡi, thân và ý biết cũng giống như vậy. Còn những Samôn, Bà-la-môn này khi mắt thấy sắc đã lìa tham, lìa dục, lìa ái, lìa khao khát, lìa nhớ nghĩ, trong tâm tĩnh lặng, không làm phi pháp, việc làm chuẩn mực, không mờ ám. Tai, mũi, lưỡi, thân và ý biết pháp cũng lại như vậy. Chúng tôi mà so với các Sa-môn, Bà-la-môn như thế thì thật khác xa. Cho nên, tôi phải cung kính, tôn trọng, lễ bái, cúng dường.”

Nếu họ lại hỏi: “Các Sa-môn, Bà-la-môn kia đã làm những gì? Tướng mạo thế nào? Có đặc điểm gì? Làm sao các ông biết những Sa-môn, Bà-la-môn ấy đã lìa tham, hướng đến điều phục tham; đã lìa sân, hướng đến điều phục sân; đã lìa si, hướng đến điều phục si?” Các ông nên trả lời rằng: “Tôi thấy Sa-môn, Bà-la-môn ấy thường ngồi giường thấp hoặc ngồi nệm cỏ nơi khu rừng, bên gốc cây, giữa đồng vắng để tu hạnh viễn ly, xa lìa người nữ, ưa gần người độc cư để cùng thiền định tư duy. Khi ở những nơi như vậy, mắt không thấy sắc để sanh tham đắm, tai không nghe tiếng, mũi không ngửi mùi, lưỡi không nếm vị, thân không xúc chạm để sanh tham đắm. Các Sa-môn, Bà-la-môn có những hành động như thế, tướng mạo như thế, đặc điểm như thế nên khiến chúng tôi biết các Sa-môn, Bà-la-môn này đã lìa tham, hướng đến điều phục tham; đã lìa sân, hướng đến điều phục sân; đã lìa si, hướng đến điều phục si.”

Bấy giờ, các Sa-môn và trưởng giả Bà-la-môn bạch Phật:

– Kỳ lạ thay! Thưa Thế Tôn! Ngài không khen mình, không chê người mà chỉ nói ý nghĩa. Dựa trên nền tảng tu học của từng người mà Ngài giảng giải ô nhiễm hay thanh tịnh. Ngài giảng nói về duyên khởi đúng như bậc Như Lai, Ứng Cúng, Giác Ngộ Viên Mãn đã nói. Ví như người cứu kẻ chết chìm, mở cửa cho người bị giam hãm, chỉ đường cho kẻ lạc lối, thắp đèn sáng nơi tối tăm, đức Thế Tôn cũng giống như thế. Ngài không khen mình, không chê người mà chỉ nói ý nghĩa (cho đến) đúng như bậc Như Lai, Ứng Cúng, Giác Ngộ Viên Mãn đã nói.

Các trưởng giả Bà-la-môn thành Tần-đầu sau khi nghe Phật chỉ dạy đều vui mừng, đảnh lễ Phật rồi ra về.

 

Chú thích:

[1] Tựa đề đặt theo nội dung kinh. Tạp. 雜 (T.02. 0099.280. 0076c03). Tham chiếu: M. 150, Nagaravindeyya Sutta (Kinh nói cho dân chúng Nagaravinda).

[2] Tần-đầu thành (頻頭城, Nagaravinda), một ngôi làng trong nước Kosala.

[3] Nguyên tác: Tượng loại Tỳ-kheo (像類比丘). Do phần đầu của câu ghi là Tượng loại Sa-môn, Bà-la-môn (像類沙門, 婆羅門) nên sửa lại cho thống nhất.

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.