Viện Nghiên Cứu Phật Học

QUYỂN 11

276. TỲ-KHEO NAN-ĐÀ THUYẾT PHÁP[1]

 

Tôi nghe như vầy:

Một thời, đức Phật ngụ tại vườn Cấp Cô Độc, trong rừng Kỳ-đà, thuộc nước Xá-vệ.

Bấy giờ, chúng Tỳ-kheo-ni thuộc hàng đệ tử lớn cư ngụ trong ngự viên nước Xá-vệ. Tên các Tỳ-kheo-ni ấy là Thuần-đà, Dân-đà, Ma-la-bà, Ba-la-giála, A-la-tỳ-ca, Sai-ma, Nan-ma, Cát-ly-xá Cù-đàm-di, Liên Hoa Sắc, Ma-ha Ba-xà-ba-đề và một số Tỳ-kheo-ni khác.

Khi ấy, Tỳ-kheo-ni Ma-ha Ba-xà-ba-đề cùng năm trăm Tỳ-kheo-ni tuần tự trước sau đi đến chỗ Phật, cúi lạy sát chân Ngài rồi ngồi sang một bên. Thế Tôn liền vì Tỳ-kheo-ni Ma-ha Ba-xà-ba-đề mà thuyết pháp, mở bày, dạy bảo, khích lệ, khiến cho hoan hỷ. Sau khi bằng nhiều cách thuyết pháp, mở bày, dạy bảo, khích lệ, khiến cho hoan hỷ xong, Thế Tôn cho phép họ ra về nên bảo rằng: “Tỳ-kheo-ni! Đã đến lúc nên trở về.”

Sau khi nghe pháp, Tỳ-kheo-ni Ma-ha Ba-xà-ba-đề hoan hỷ và tùy hỷ, liền đảnh lễ rồi ra về.

Sau khi biết Tỳ-kheo-ni Ma-ha Ba-xà-ba-đề đã ra về, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

_Ta nay đã già yếu, không thể vì các Tỳ-kheo-ni mà thuyết pháp nữa. Tỳ-kheo-tăng các thầy hiện đã là bậc Thượng tọa, đầy đủ đức hạnh phải nên giảng dạy cho các Tỳ-kheo-ni.

Các Tỳ-kheo vâng lời Thế Tôn dạy, theo thứ lớp đến giảng dạy cho các Tỳ-kheo-ni. Cứ thế, lần lượt đến phiên Nan-đà nhưng thầy ấy không muốn đi.

Bấy giờ, Tỳ-kheo-ni Ma-ha Ba-xà-ba-đề cùng năm trăm Tỳ-kheo-ni tuần tự trước sau đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy sát chân Ngài (cho đến) nghe pháp xong, hoan hỷ và tùy hỷ, đảnh lễ Phật rồi ra về.

[0074a02] Thế Tôn biết Tỳ-kheo-ni Ma-ha Ba-xà-ba-đề đã ra về, liền hỏi Tôn giả A-nan:

_Theo thứ tự, hôm nay đến phiên ai giảng dạy giáo pháp cho các Tỳ-kheo-ni?

Tôn giả A-nan bạch Phật:

_Bạch Thế Tôn! Các Thượng tọa đã lần lượt đến giảng dạy Tỳ-kheo-ni rồi, hôm nay tới phiên Nan-đà, nhưng Nan-đà không muốn làm giáo thọ.

Thế Tôn bảo Nan-đà:

_Thầy hãy giảng dạy các Tỳ-kheo-ni, vì các Tỳ-kheo-ni mà nói pháp. Vì sao như vậy? Vì Ta đã đích thân giảng dạy các Tỳ-kheo-ni nên thầy cũng phải như vậy. Ta đã vì các Tỳ-kheo-ni mà nói pháp nên thầy cũng phải như thế.

Lúc ấy, Nan-đà im lặng vâng lời. Sáng hôm sau, Nan-đà đắp y, ôm bát vào thành Xá-vệ khất thực. Thọ trai xong, Nan-đà trở về tinh xá, xếp cất y bát, rửa chân rồi vào thất tọa thiền. Sau khi tọa thiền, Nan-đà khoác y Tăng-già-lê, cùng với một Tỳ-kheo đi đến ngự viên. Các Tỳ-kheo-ni từ xa trông thấy Tôn giả Nan-đà đến, vội vàng trải tòa, mời Tôn giả ngồi. Tôn giả Nan-đà an tọa xong, các Tỳ-kheo-ni cúi đầu đảnh lễ rồi ngồi sang một bên. Tôn giả Nan-đà nói với các Tỳ-kheo-ni:

_Thưa quý cô! Quý cô nên hỏi tôi, tôi sẽ vì quý cô mà nói pháp. Quý cô hiểu rồi, xin nói đã hiểu; nếu không hiểu, nên nói là không hiểu. Những nghĩa lý tôi nói ra, nếu đã hiểu, hãy khéo thực hành; nếu không hiểu phải hỏi lại, tôi sẽ sẵn sàng giảng giải.

Các Tỳ-kheo-ni thưa với Tôn giả Nan-đà:

_Chúng con hôm nay được nghe Tôn giả dạy, còn cho phép chúng con hỏi. Tôn giả bảo chúng con: “Quý cô nếu chưa hiểu thì phải hỏi, hiểu rồi xin nói đã hiểu, không hiểu thì nói là không hiểu. Những nghĩa lý tôi nói ra, nếu đã hiểu, hãy khéo thực hành; nếu không hiểu phải hỏi lại, tôi sẽ sẵn sàng giảng giải.” Chúng con nghe được điều này trong lòng rất vui mừng. Hôm nay, nếu có nghĩa lý nào chưa hiểu, chúng con sẽ hỏi.

Bấy giờ, Tôn giả Nan-đà nói với các Tỳ-kheo-ni:

_Quý cô quán sát thấy thế nào? Nhãn căn[2] là ngã, khác ngã, hoặc tồn tại trong nhau chăng?

Các Tỳ-kheo-ni đáp:

_Thưa Tôn giả, không phải vậy!

_Căn của tai, mũi, lưỡi, thân và ý là ngã, khác ngã, hoặc tồn tại trong nhau chăng?

Các Tỳ-kheo-ni đáp:

_Thưa Tôn giả, không phải vậy! Vì sao như thế? Thưa Tôn giả Nan-đà! Vì chúng con đã từng thấy biết như thật về pháp này, đã từng quán sát sáu căn là vô ngã,[3] chúng con đã từng hiểu sáu căn là vô ngã.

[0074b01] Tôn giả Nan-đà bảo các Tỳ-kheo-ni:

_Hay thay! Hay thay! Quý cô nên hiểu đúng như vầy: “Sáu căn là vô ngã.” Này các Tỳ-kheo-ni! Sắc trần bên ngoài là ngã, khác ngã, hoặc ở trong nhau chăng?

Các Tỳ-kheo-ni đáp:

_Thưa Tôn giả, không phải vậy!

_Thanh, hương, vị, xúc và pháp trần bên ngoài là ngã, khác ngã, hoặc tồn tại trong nhau chăng?

Các Tỳ-kheo-ni đáp:

_Không phải vậy, thưa Tôn giả! Vì sao như thế? Thưa Tôn giả Nan-đà! Vì chúng con đã từng quán sát như thật sáu trần bên ngoài là vô ngã. Chúng con thường hiểu sáu trần bên ngoài đúng như thật là vô ngã.

Tôn giả Nan-đà khen ngợi các Tỳ-kheo-ni:

_Hay thay! Hay thay! Quý cô nên hiểu đúng ý nghĩa như vầy: “Sáu trần bên ngoài là vô ngã.” Vậy nếu mắt duyên với sắc sanh ra nhãn thức thì nhãn thức ấy là ngã, khác ngã, hoặc tồn tại trong nhau chăng?

Các Tỳ-kheo-ni đáp:

_Thưa Tôn giả, không phải vậy!

_Tai, mũi, lưỡi, thân và ý duyên với pháp sanh ra ý thức, vậy ý thức ấy là ngã, khác ngã, hoặc tồn tại trong nhau chăng?

Các Tỳ-kheo-ni đáp:

_Không phải vậy, thưa Tôn giả! Vì sao như vậy? Vì chúng con đã từng quán sát như thật sáu thức thân này là vô ngã. Chúng con cũng thường hiểu sáu thức thân đúng như thật là vô ngã.

Tôn giả Nan-đà bảo các Tỳ-kheo-ni:

_Hay thay! Hay thay! Với ý nghĩa này, quý cô nên quán sát đúng như vậy: “Sáu thức thân đúng như thật là vô ngã.” Vậy nếu mắt duyên với sắc sanh ra nhãn thức, ba yếu tố này hòa hợp sanh ra xúc thì xúc ấy là ngã, khác ngã, hoặc tồn tại trong nhau chăng?

Các Tỳ-kheo-ni đáp:

_Thưa Tôn giả, không phải vậy!

_Tai, mũi, lưỡi, thân và ý duyên với pháp sanh ra ý thức, ba thứ này hòa hợp sanh ra xúc, vậy xúc ấy là ngã, khác ngã, hoặc tồn tại trong nhau chăng?

Các Tỳ-kheo-ni đáp:

_Không phải vậy, thưa Tôn giả! Vì sao như vậy? Vì chúng con đã từng quán sát như thật sáu xúc này là vô ngã. Chúng con cũng thường hiểu như thế, sáu xúc đúng như thật là vô ngã.

Tôn giả Nan-đà bảo các Tỳ-kheo-ni:

_Hay thay! Hay thay! Quý cô nên quán sát như thật rằng: “Sáu xúc thân này đúng thật là vô ngã.” Thế thì, mắt duyên với sắc sanh nhãn thức, ba yếu tố này hòa hợp sanh ra xúc, duyên xúc sanh ra thọ thì thọ kia là ngã, khác ngã, hoặc tồn tại trong nhau chăng?

Các Tỳ-kheo-ni đáp:

_Thưa Tôn giả, không phải vậy!

_Tai, mũi, lưỡi, thân và ý duyên với pháp sanh ra ý thức, ba yếu tố này hòa hợp sanh ra xúc, duyên xúc sanh ra thọ thì thọ ấy là ngã, khác ngã, hoặc tồn tại trong nhau chăng?

Các Tỳ-kheo-ni đáp:

_Không phải vậy, thưa Tôn giả! Vì sao như vậy? Vì chúng con đã từng quán sát như thật sáu thọ thân này là vô ngã. Chúng con cũng thường hiểu như thế, sáu thọ thân đúng như thật là vô ngã.

[0074c02] Tôn giả Nan-đà lại bảo các Tỳ-kheo-ni:

_Hay thay! Hay thay! Đối với nghĩa này, quý cô nên quán sát đúng như thật rằng: “Sáu thọ thân này đúng như thật là vô ngã.” Thế thì, mắt duyên sắc sanh ra nhãn thức, ba yếu tố này hòa hợp sanh ra xúc, duyên xúc sanh ra tưởng thì tưởng ấy là ngã, khác ngã, hoặc tồn tại trong nhau chăng?

Các Tỳ-kheo-ni đáp:

_Thưa Tôn giả, không phải vậy!

_Tai, mũi, lưỡi, thân và ý duyên với pháp sanh ra ý thức, ba yếu tố này hòa hợp sanh ra xúc, duyên xúc sanh ra tưởng thì tưởng ấy là ngã, khác ngã, hoặc tồn tại trong nhau chăng?

Các Tỳ-kheo-ni đáp:

_Không phải vậy, thưa Tôn giả! Vì sao như vậy? Vì chúng con đã từng quán sát như thật sáu tưởng thân này là vô ngã. Chúng con cũng thường hiểu sáu tưởng thân đúng như thật là vô ngã.

Tôn giả Nan-đà bảo các Tỳ-kheo-ni:

_Hay thay! Hay thay! Quý Tỳ-kheo-ni! Đối với nghĩa này, quý cô nên quán sát đúng như thật rằng: “Sáu tưởng thân này đúng như thật là vô ngã.” Thế thì, mắt duyên với sắc sanh ra nhãn thức, ba yếu tố này hòa hợp sanh ra xúc, duyên xúc sanh ra tư thì tư ấy là ngã, khác ngã, hoặc tồn tại trong nhau chăng?

Các Tỳ-kheo-ni đáp:

_Thưa Tôn giả, không phải vậy!

_Tai, mũi, lưỡi, thân và ý duyên với pháp sanh ra ý thức, ba yếu tố này hòa hợp sanh ra xúc, duyên xúc sanh ra tư thì tư ấy là ngã, khác ngã, hoặc tồn tại trong nhau chăng?

Các Tỳ-kheo-ni đáp:

_Không phải vậy, thưa Tôn giả! Vì sao như vậy? Vì chúng con đã từng quán sát như thật sáu tư thân này là vô ngã. Chúng con thường hiểu sáu tư thân đúng như thật là vô ngã.

Tôn giả Nan-đà bảo các Tỳ-kheo-ni:

_Hay thay! Hay thay! Các Tỳ-kheo-ni! Đối với nghĩa này, quý cô nên quán sát đúng như thật rằng: “Sáu tư thân này đúng như thật là vô ngã.” Thế thì, mắt duyên với sắc sanh ra nhãn thức, ba yếu tố này hòa hợp sanh ra xúc, duyên xúc sanh ra ái thì ái ấy là ngã, khác ngã, hoặc tồn tại trong nhau chăng?

Các Tỳ-kheo-ni đáp:

_Thưa Tôn giả, không phải vậy!

_Tai, mũi, lưỡi, thân và ý duyên với pháp sanh ý thức, ba yếu tố này hòa hợp sanh ra xúc, duyên xúc sanh ra ái thì ái ấy là ngã, khác ngã, hoặc tồn tại trong nhau chăng?

Các Tỳ-kheo-ni đáp:

_Không phải vậy, thưa Tôn giả! Vì sao như vậy? Vì chúng con đã từng quán sát như thật sáu ái thân này là vô ngã. Chúng con cũng thường hiểu sáu ái thân đúng như thật là vô ngã.

Tôn giả Nan-đà bảo các Tỳ-kheo-ni:

_Đối với nghĩa này, quý cô nên quán sát đúng như thật rằng: “Sáu ái thân này đúng như thật là vô ngã.” Này các Tỳ-kheo-ni! Ví như nhờ có dầu và tim đèn mà cây đèn được cháy sáng. Dầu ấy vô thường, tim đèn cũng vô thường, lửa cũng vô thường, cây đèn cũng vô thường. Nếu có người bảo rằng không cần dầu, không cần tim đèn, không cần bật lửa, không cần cây đèn mà vẫn có ánh sáng ngọn đèn và ánh sáng ấy luôn như vậy, thường hiện diện, không thay đổi thì lời nói ấy có hợp lý chăng?

Các Tỳ-kheo-ni đáp:

[0075a03] – Thưa Tôn giả! Không phải vậy. Vì sao như vậy? Vì nhờ dầu, tim đèn, cây đèn nên cây đèn mới sáng; dầu, tim đèn và cây đèn ấy đều vô thường. Nếu không có dầu, không tim đèn, không cây đèn thì ánh sáng của cây đèn ấy cũng theo đó mà diệt mất, trở về trạng thái tĩnh lặng, chân thật.

Tôn giả Nan-đà nói:

_Cũng vậy, này quý cô! Sáu căn này là vô thường. Nếu có người cho rằng sáu căn này là nhân duyên sanh ra sự vui vẻ, an lạc, thường hằng, không thay đổi và luôn yên ổn thì lời nói này có đúng không?

Các Tỳ-kheo-ni đáp:

_Không đúng như vậy, thưa Tôn giả! Vì sao như thế? Vì chúng con đã từng quán sát như thật rằng, những pháp này làm duyên sanh ra những pháp kia, khi những pháp làm duyên diệt thì những pháp do duyên sanh cũng theo đó mà diệt, tất cả đều trở về trạng thái tĩnh lặng, chân thật.

Tôn giả Nan-đà bảo các Tỳ-kheo-ni:

_Hay thay! Hay thay! Này các Tỳ-kheo-ni! Đối với nghĩa này, quý cô nên quán sát như thật rằng: “Những pháp này làm duyên sanh ra những pháp kia, khi những pháp làm duyên diệt thì những pháp do duyên sanh cũng theo đó mà diệt và trở về trạng thái tĩnh lặng, chân thật.”

Này các Tỳ-kheo-ni! Ví như gốc, cành, nhánh, lá của một cây to; gốc nó vô thường, cành, nhánh, lá cũng vô thường. Nếu có người bảo rằng không gốc, không cành, không nhánh, không lá cây, chỉ có bóng mát của cây là thường hằng, không thay đổi thì lời nói ấy có hợp lý chăng?

Các Tỳ-kheo-ni đáp:

_Thưa Tôn giả! Không phải vậy. Vì sao như vậy? Vì gốc, cành, nhánh, lá của cây to kia, gốc nó vô thường, cành, nhánh, lá cũng vô thường. Nếu không gốc, không cành, không nhánh, không lá thì làm gì có bóng cây?

_Thưa quý cô! Nếu duyên sáu trần bên ngoài là vô thường mà có người nói sáu trần bên ngoài là nhân duyên sanh ra sự vui vẻ, an lạc, thường hằng, không thay đổi và luôn an ổn thì lời nói này có đúng không?

_Không phải vậy, thưa Tôn giả! Vì sao như vậy? Vì chúng con đã từng đối với nghĩa này quán sát như thật rằng, những pháp kia làm duyên sanh ra những pháp này, khi những pháp làm duyên diệt thì những pháp do duyên sanh cũng theo đó mà diệt, trở về trạng thái tĩnh lặng, chân thật.

Tôn giả Nan-đà bảo các Tỳ-kheo-ni:

_Hay thay! Hay thay! Các Tỳ-kheo-ni! Đối với ý nghĩa này, quý cô hãy quán sát như thật rằng: “Những pháp này làm duyên sanh ra những pháp kia, khi những pháp làm duyên diệt thì những pháp do duyên sanh cũng theo đó mà diệt và trở về trạng thái tĩnh lặng, chân thật.” Quý cô hãy lắng nghe tôi nói ví dụ, người trí nhờ ví dụ để hiểu rõ. Ví như người thợ mổ bò khéo léo, hoặc học trò của ông ta, cầm dao bén mổ xẻ thịt bò, lạng lóc giữa da và thịt, không cho phạm phần thịt bên trong, cũng không để rách phần da bên ngoài, rồi họ tách rời chân cẳng, gân cốt của con bò, sau đó dùng tấm da bò phủ lên trên nó. Nếu có người bảo rằng: “Da và thịt của con bò này hoàn toàn không bị tách rời”, lời nói này có đúng không?

[0075b05] Các Tỳ-kheo-ni đáp:

_Thưa Tôn giả! Không đúng vậy. Vì sao như thế? Vì người thợ mổ bò khéo léo, hoặc học trò của ông ta, cầm dao bén mổ xẻ thịt bò, lạng lóc giữa da và thịt, không cho phạm phần thịt bên trong, cũng không để rách phần da bên ngoài, rồi họ tách rời chân cẳng, gân cốt của con bò, sau đó dùng tấm da bò phủ lên trên nó, thế thì da và thịt của con bò đã rời nhau, chẳng thể nào không rời.

_Thưa quý cô! Tôi đã nói ví dụ, bây giờ tôi sẽ giải thích ý nghĩa ví dụ đó. Con trâu dụ cho sắc thô của thân người... (như Kinh ví dụ giỏ rắn độc đã nói chi tiết).[4] Phần thịt dụ cho sáu căn bên trong, phần da dụ cho sáu trần bên ngoài, người đồ tể dụ cho người tu tập đã thấy con đường của đạo, gân xương nằm trong da thịt là dụ cho hai món tham và hỷ cùng đi với nhau, dao bén dụ cho trí tuệ nhanh nhạy. Vị Thánh đệ tử đa văn dùng con dao bén trí tuệ chặt đứt mọi sự ràng buộc của kiết sử, trói buộc, tùy miên, phiền não, thượng phần phiền não, triền cái.[5] Do đó, quý cô nên học như vầy: “Đối với những pháp đáng yêu thích, tâm không nên đắm trước, vì để đoạn trừ tham. Đối với những pháp nên sân hận, tâm cũng không sân hận, vì để đoạn trừ sân. Đối với những pháp phải si mê, tâm không nên si mê, vì để đoạn trừ si. Đối với năm thủ uẩn phải quán sanh diệt. Đối với sáu xúc nhập xứ phải quán sát về sự tập khởi và diệt tận của chúng. Đối với bốn niệm xứ, phải khéo buộc tâm, an trú nơi bảy giác phần. Tu bảy giác phần rồi thì đối với dục lậu kia tâm không dính mắc, tâm được giải thoát; đối với hữu lậu, tâm không dính mắc, tâm được giải thoát; đối với vô minh lậu, tâm không dính mắc, tâm được giải thoát.” Quý cô nên học như vậy.

Bấy giờ, Tôn giả Nan-đà vì các Tỳ-kheo-ni mà thuyết pháp, mở bày, dạy bảo, khích lệ, khiến cho hoan hỷ. Sau khi mở bày, dạy bảo, khích lệ, khiến cho hoan hỷ rồi, Tôn giả Nan-đà rời tòa ra về. Bấy giờ, Tỳ-kheo-ni Ma-ha Ba-xàba-đề cùng năm trăm Tỳ-kheo-ni quyến thuộc vây quanh đi đến chỗ Phật, cúi lạy sát chân Ngài rồi đứng sang một bên...  (cho đến) cúi đầu lễ Phật rồi ra về.

Sau khi biết Tỳ-kheo-ni Ma-ha Ba-xà-ba-đề đã về rồi, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

_Ví như đêm mười bốn trăng sáng, nhiều người ngắm trăng xem trăng tròn hay chưa. Nên biết vầng trăng ấy chưa tròn lắm. Cũng vậy, thiện nam Nan-đà vì năm trăm Tỳ-kheo-ni mà chính thức làm giáo thọ, giảng dạy Chánh pháp, nhưng các Tỳ-kheo-ni cũng vẫn chưa rốt ráo giải thoát. Tuy nhiên, đến khi họ lâm chung, không còn một kiết sử nào mà chưa được đoạn trừ để khiến họ sanh trở lại thế gian này.

[0075c03] Bấy giờ, Thế Tôn lại bảo Nan-đà:

_Thầy nên thuyết pháp cho các Tỳ-kheo-ni thêm một lần nữa.

Tôn giả Nan-đà im lặng vâng lời. Sáng hôm sau, Tôn giả ôm bát vào thành khất thực. Thọ trai xong, Tôn giả đi đến ngự viên rồi ngồi xuống tòa, vì các Tỳkheo-ni mà thuyết pháp, mở bày, dạy bảo, khích lệ, khiến cho hoan hỷ.12 Sau khi mở bày, dạy bảo, khích lệ, khiến cho hoan hỷ, Tôn giả rời tòa ra về. Hôm khác, Tỳ-kheo-ni Ma-ha Ba-xà-ba-đề cùng năm trăm Tỳ-kheo-ni vây quanh đi đến chỗ Phật, cúi lạy sát chân Ngài,... (cho đến) cúi đầu lễ Phật rồi ra về. 

Bấy giờ, Thế Tôn biết Tỳ-kheo-ni Ma-ha Ba-xà-ba-đề đã ra về, liền nói với các Tỳ-kheo:

_Ví như đêm rằm trăng sáng, không còn ai nghi ngờ vầng trăng tròn hay chưa tròn, vì vầng trăng đó đã thật sự tròn đầy. Cũng vậy, thiện nam Nan-đà vì các Tỳ-kheo-ni mà truyền dạy Chánh pháp, giúp họ được giải thoát rốt ráo. Đến lúc lâm chung, dù không có người nói cho họ biết con đường sẽ đến, các vị ấy cũng tự biết mình đã vượt thoát khổ đau.

Đây là lời Thế Tôn thọ ký cho năm trăm Tỳ-kheo-ni chứng quả Tu-đà-hoàn.

Đức Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy đều hoan hỷ phụng hành.

***

 

Chú thích:

[1] Tựa đề đặt theo nội dung kinh. Tạp. 雜 (T.02. 0099.276. 0073c09). Tham chiếu: M. 146, Nandakovāda Sutta (Kinh giáo giới Nandaka).

[2] Nguyên tác: Nhãn nội nhập xứ (眼內入處), tức nhãn căn. Xem chú thích 6, kinh số 233, quyển 9, tr. 249;  Tạp. 雜 (T.02. 0099.233. 0056c02).

[3] Nguyên tác: Nội lục nhập xứ (內六入處), còn viết là “lục nhập xứ” (六入處), chỉ cho 6 căn. Xứ (處, āyatana): Cơ sở, nền tảng, nguồn cội, căn.

[4] Có 5 bài kinh trong Tạp A-hàm đề cập đến ví dụ giỏ rắn độc, gồm . 103; . 104; . 1033; . 1039; . 1172. Sau khi đối khảo, có khả năng ví dụ trong kinh này được đề cập ở . 1172.

[5] Xem chú thích 41-45, kinh số 201, quyển 8, tr. 225-26; Tạp. 雜 (T.02. 0099.201. 0051c11). 12 Nguyên tác: Thị, giáo, chiếu, hỷ (示, 教, 照, 喜). Xem chú thích 24, kinh số 92, quyển 4, tr. 105; Tạp. 雜 (T.02. 0099.92. 0023c18).

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.