Tam tạng Thánh điển PGVN 20 » Tam tạng Phật giáo Bộ phái 04 »
Hòa Thượng THÍCH THIỆN SIÊU
Hòa Thượng THÍCH THANH TỪ
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật trú tại nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, trong vườn Cấp Cô Độc.
Bấy giờ, có chúng Tỳ-kheo-ni thuộc hàng Đại Thanh văn ở trong vườn vua nước Xá-vệ. Tên các Tỳ-kheo-ni là Thuần-đà-đà, Dân-đà, Ma-la-bà, Ba-la-giá-la, Đà-la-tỳ-ca, Sai-ma, Nam-ma, Cáo-nan-xá, Cù-đàm-di, Ưu-bát-la-sắc, Ma-ha-ba-xà-ba-đề, những vị này và một số Tỳ-kheo-ni khác đều ở trong vườn vua.
Khi ấy, Tỳ-kheo-ni Ma-ha-ba-xà-ba-đề cùng với năm trăm Tỳ-kheo-ni trước sau vây quanh đi đến chỗ Phật, cúi đầu lễ dưới chân Phật rồi ngồi qua một bên. Thế Tôn liền vì Tỳ-kheo-ni Ma-ha-ba-xà-ba-đề thuyết pháp, khai thị, chỉ dạy, soi sáng, vui mừng, ân cần, thuyết pháp về nhiều vấn đề. Sau khi huấn thị xong, Ngài cho phép lui về. Tỳ-kheo-ni Ma-ha-ba-xà-ba-đề nghe xong, vui vẻ làm lễ cáo từ. Thế Tôn biết Tỳ-kheo-ni Ma-ha-ba-xà-ba-đề đã về rồi mới bảo các Tỳ-kheo:
– Ta nay tuổi đã già yếu, không còn có thể vì các Tỳ-kheo-ni thuyết pháp được, Tỳ-kheo-tăng các thầy ngày nay là bậc Thượng tọa, đầy đủ đạo đức, nên đến dạy dỗ các Tỳ-kheo-ni.
Các Tỳ-kheo vâng lời Thế Tôn dạy, thứ lớp dạy dỗ các Tỳ-kheo-ni. Đến phiên Nan-đà. Khi ấy Nan-đà đến phiên phải đi, nhưng ông không muốn đi.
Khi ấy, Tỳ-kheo-ni Ma-ha-ba-xà-ba-đề cùng năm trăm Tỳ-kheo-ni trước sau vây quanh đến chỗ Thế Tôn, cúi đầu lễ chân Phật, xin được nghe pháp. Nghe xong, vị Tỳ-kheo-ni này vui vẻ, đảnh lễ rồi ra về.
Biết Tỳ-kheo-ni Ma-ha-ba-xà-ba-đề đã về, Thế Tôn cho gọi A-nan đến hỏi:
– Đến phiên ai giáo thọ các Tỳ-kheo-ni?
Tôn giả A-nan bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn, các Thượng tọa đã lần lượt giáo thọ Tỳ-kheo-ni rồi, tới phiên Nan-đà, nhưng Nan-đà không muốn giáo thọ.
Thế Tôn bảo Nan-đà:
– Thầy nên giáo thọ các Tỳ-kheo-ni, thuyết pháp cho các Tỳ-kheo-ni. Vì cớ sao? Vì Ta đã đích thân dạy dỗ các Tỳ-kheo-ni thì thầy cũng phải như thế. Ta đã thuyết pháp cho các Tỳ-kheo-ni thì thầy cũng phải như thế.
Nan-đà đành phải im lặng vâng lời. Đến sáng hôm sau, Nan-đà đắp y, mang bát vào thành Xá-vệ khất thực, thọ trai xong, trở về tinh xá, thu dọn y bát, rửa chân vào thất tọa thiền. Sau khi tọa thiền, Nan-đà khoác y Tăng-già-lê, dẫn một Tỳ-kheo đi đến vườn vua. Các Tỳ-kheo-ni trông thấy Tôn giả Nan-đà đến, vội vàng trải tòa mời ngồi. Tôn giả Nan-đà an tọa xong, các Tỳ-kheo-ni cúi đầu đảnh lễ, rồi lui ngồi một bên. Tôn giả Nan-đà nói với các Tỳ-kheo-ni:
– Thưa quý cô, quý cô nên hỏi tôi, tôi sẽ vì quý cô thuyết pháp. Quý cô hiểu rồi, xin nói đã hiểu; nếu chẳng hiểu, nên nói chẳng hiểu. Những nghĩa lý tôi nói ra nếu đã hiểu hãy khéo thực hành. Nếu không hiểu phải hỏi lại, tôi sẽ sẵn sàng nói lại.
Các Tỳ-kheo-ni thưa Tôn giả Nan-đà:
– Chúng con ngày nay nghe Tôn giả cho phép chúng con hỏi và nói: Nếu chúng con chưa hiểu, sẽ hỏi lại, nếu đã hiểu, chúng con nói đã hiểu, chưa hiểu, chúng con nói chưa hiểu. Đối với những nghĩa lý mà Tôn giả nói ra; nếu đã hiểu, chúng con sẽ thực hành, chưa hiểu, sẽ hỏi lại. Chúng con nghe được điều này, lòng rất vui mừng. Những nghĩa lý chưa hiểu, bây giờ chúng con sẽ hỏi.
Lúc đó, Tôn giả Nan-đà bảo các Tỳ-kheo-ni:
– Thế nào, quý cô quán sát nội nhập xứ của mắt là ngã, khác ngã, hoặc ở trong nhau chăng?
Các Tỳ-kheo-ni đáp:
– Thưa Tôn giả Nan-đà, không!
– Quán sát nội nhập xứ của tai, mũi, lưỡi, thân, ý là ngã, khác ngã, hoặc ở trong nhau chăng?
Các Tỳ-kheo-ni đáp:
– Thưa Tôn giả Nan-đà, không! Vì cớ sao? Thưa Tôn giả Nan-đà, chúng con đã từng đối với pháp này thấy biết như thật. Đối với sáu nội nhập xứ quán sát vô ngã, chúng con từng hiểu như vậy: Sáu nội nhập xứ là vô ngã.
Tôn giả Nan-đà bảo các Tỳ-kheo-ni:
– Lành thay! Lành thay! Quý cô hiểu như thế rất đúng. Quán sát sáu nội nhập xứ là vô ngã. Này các Tỳ-kheo-ni, sắc ngoại nhập xứ là ngã, khác ngã, hoặc ở trong nhau chăng?
Các Tỳ-kheo-ni đáp:
– Thưa Tôn giả Nan-đà, không!
– Thanh, hương, vị, xúc, pháp ngoại nhập xứ là ngã, khác ngã, hoặc ở trong nhau chăng?
– Thưa Tôn giả Nan-đà, không! Vì cớ sao? Vì chúng con đã từng đối với sáu ngoại nhập xứ quán sát như thật vô ngã. Chúng con thường hiểu ý này: Sáu ngoại nhập xứ như thật vô ngã.
Tôn giả Nan-đà khen ngợi các Tỳ-kheo-ni:
– Tốt lắm! Quý cô đối với nghĩa này nên quán sát như thế, sáu ngoại nhập xứ vô ngã. Nếu duyên mắt và sắc sanh nhãn thức, nhãn thức ấy là ngã, khác ngã, hoặc ở trong nhau chăng?
Các Tỳ-kheo-ni đáp:
– Thưa Tôn giả Nan-đà, không!
– Tai, mũi, lưỡi, thân, ý, pháp làm duyên sanh ý thức, ý thức ấy là ngã, khác ngã, hoặc ở trong nhau chăng?
– Thưa Tôn giả Nan-đà, không! Vì cớ sao? Chúng con đã từng đối với sáu thức thân này quán sát như thật vô ngã. Chúng con cũng thường hiểu ý này: Sáu thức thân như thật vô ngã.
Tôn giả Nan-đà bảo các Tỳ-kheo-ni:
– Lành thay! Lành thay! Quý cô đối với nghĩa này nên quán sát như thế: Sáu thức thân như thật vô ngã; duyên mắt và sắc sanh nhãn thức; ba sự hòa hợp sanh ra xúc; xúc ấy là ngã, khác ngã, hoặc ở trong nhau chăng?
Các Tỳ-kheo-ni đáp:
– Thưa Tôn giả Nan-đà, không!
– Tai, mũi, lưỡi, thân, ý, pháp làm duyên sanh ý thức; ba thứ hòa hợp sanh ra xúc; xúc ấy là ngã, khác ngã, hoặc ở trong nhau chăng?
– Thưa Tôn giả Nan-đà, không! Vì cớ sao? Chúng con đã từng đối với sáu xúc này quán sát như thật vô ngã, chúng con cũng thường hiểu như vầy: Sáu xúc như thật vô ngã.
Tôn giả Nan-đà bảo các Tỳ-kheo-ni:
– Lành thay! Quý cô đối với nghĩa này nên quán sát như thế: Sáu xúc thân như thật vô ngã. Duyên mắt và sắc sanh nhãn thức; ba sự hòa hợp sanh xúc; xúc duyên thọ, thọ kia là ngã, khác ngã, hoặc ở trong nhau chăng?
Các Tỳ-kheo-ni đáp:
– Thưa Tôn giả Nan-đà, không!
– Tai, mũi, lưỡi, thân, ý, pháp làm duyên sanh ý thức; ba thứ hòa hợp thành xúc; xúc duyên thọ, thọ ấy là ngã, khác ngã, hoặc ở trong nhau chăng?
– Thưa Tôn giả Nan-đà, không! Vì cớ sao? Vì chúng con đã từng đối với sáu thọ thân này như thật quán sát vô ngã. Chúng con cũng thường hiểu ý này: Sáu thọ thân như thật vô ngã.
Tôn giả Nan-đà lại bảo các Tỳ-kheo-ni:
– Lành thay! Quý cô đối với nghĩa này nên quán sát như thế: Sáu thọ thân này như thật vô ngã. Duyên mắt và sắc sanh nhãn thức; ba sự hòa hợp sanh xúc; xúc duyên tưởng, tưởng ấy là ngã, khác ngã, hoặc ở trong nhau chăng?
Các Tỳ-kheo-ni đáp:
– Thưa Tôn giả Nan-đà, không!
– Tai, mũi, lưỡi, thân, ý, pháp làm duyên sanh ý thức; ba sự hòa hợp sanh xúc; xúc duyên tưởng, tưởng ấy là ngã, khác ngã, hoặc ở trong nhau chăng?
– Thưa Tôn giả Nan-đà, không! Vì cớ sao?
Vì chúng con đã từng đối với sáu tưởng thân này như thật quán sát vô ngã. Chúng con cũng thường hiểu ý này: Sáu tưởng thân như thật vô ngã.
Tôn giả Nan-đà bảo các Tỳ-kheo-ni:
– Lành thay! Tỳ-kheo-ni, quý cô đối với nghĩa này nên quán sát như thế: Sáu tưởng thân này như thật vô ngã. Duyên mắt và sắc sanh nhãn thức; ba sự hòa hợp thành xúc; xúc duyên tư, tư ấy là ngã, khác ngã, hoặc ở trong nhau chăng?
Các Tỳ-kheo-ni đáp:
– Thưa Tôn giả Nan-đà, không!
– Tai, mũi, lưỡi, thân, ý, pháp làm duyên sanh ý thức; ba sự hòa hợp thành xúc; xúc duyên tư, tư ấy là ngã, khác ngã hoặc ở trong nhau chăng?
– Thưa Tôn giả Nan-đà, không! Vì cớ sao? Vì chúng con đã từng đối với sáu tư thân này như thật quán sát vô ngã. Chúng con thường hiểu ý này: Sáu tư thân này như thật vô ngã.
Tôn giả Nan-đà bảo các Tỳ-kheo-ni:
– Lành thay! Tỳ-kheo-ni, quý cô đối với nghĩa này nên quán sát như thế: Sáu tư thân này như thật vô ngã. Duyên mắt và sắc sanh nhãn thức; ba sự hòa hợp thành xúc; xúc duyên ái, ái ấy là ngã, khác ngã, hoặc ở trong nhau chăng?
Các Tỳ-kheo-ni đáp:
– Thưa Tôn giả Nan-đà, không!
– Tai, mũi, lưỡi, thân, ý và pháp làm duyên sanh ý thức; ba sự hòa hợp thành xúc; xúc duyên ái, ái ấy là ngã, khác ngã, hoặc ở trong nhau chăng?
– Thưa Tôn giả Nan-đà, không! Vì cớ sao? Vì chúng con đã từng đối với sáu ái thân này như thật quán sát vô ngã. Chúng con thường hiểu ý này: Sáu ái thân này như thật vô ngã.
Tôn giả Nan-đà bảo các Tỳ-kheo-ni:
– Quý cô đối với nghĩa này nên quán sát như thế: Sáu ái thân này như thật vô ngã. Này các Tỳ-kheo-ni, ví như nhờ có dầu và tim đèn nên đèn được cháy sáng; dầu ấy vô thường, tim đèn vô thường, lửa vô thường, cây đèn cũng vô thường. Nếu có người bảo rằng không dầu, không tim, không lửa, không đèn mà có ánh sáng thường hằng, không biến đổi thì lời nói ấy có đúng chăng?
– Thưa Tôn giả Nan-đà, không!
Tôn giả Nan-đà nói:
– Vì cớ sao? Vì nhờ dầu, tim, cây đèn nên đèn cháy sáng; dầu, tim và cây đèn ấy đều là vô thường. Nếu không dầu, không tim, không đèn thì ánh sáng ấy cũng theo đó diệt mất, mát mẻ, chân thật. Như thế, này quý cô, sáu nội nhập xứ này vô thường. Nếu có người bảo rằng sáu nội nhập xứ này là nhân duyên sanh vui vẻ, an lạc, thường hằng, không biến đổi, an ổn, lời nói này có đúng không?
Các Tỳ-kheo-ni đáp:
– Thưa Tôn giả Nan-đà, không! Vì cớ sao? Vì chúng con đã từng quán sát như thật do những pháp kia làm duyên sanh những pháp này; những pháp làm duyên kia diệt thì các pháp sanh này cũng tùy theo đó diệt, mát mẻ, chân thật.
Tôn giả Nan-đà bảo các Tỳ-kheo-ni:
– Lành thay! Quý cô đối với nghĩa này nên quán sát như thế. Do những pháp kia làm duyên sanh những pháp này; những pháp làm duyên kia diệt thì các pháp sanh này cũng tùy theo đó diệt, tịch tĩnh, mát mẻ, chân thật.
Này các Tỳ-kheo-ni, ví như cây đại thọ có gốc, cành, nhánh, lá; gốc là vô thường, cành, nhánh, lá cũng vô thường. Nếu có người bảo rằng không có cành, nhánh, lá của cây kia, chỉ có cái bóng nó thường hằng, không biến đổi thì lời nói này có đúng không?
Các Tỳ-kheo-ni đáp:
– Thưa Tôn giả Nan-đà, không! Vì cớ sao? Vì như gốc, cành, nhánh, lá cây lớn kia, gốc kia vô thường thì cành, nhánh, lá cũng vô thường. Không gốc, không cành, không nhánh, không lá thì bóng nương nơi cây thảy đều không.
– Thưa quý cô, nếu duyên nơi ngoại lục nhập xứ vô thường, có người nói sáu ngoại nhập xứ là nhân duyên sanh vui vẻ, an lạc, thường hằng, không biến đổi, an ổn thì lời nói này có đúng không?
– Thưa Tôn giả, không! Vì cớ sao? Vì chúng con đối với nghĩa này đã quán sát như thật, do những pháp kia làm duyên sanh những pháp này; những pháp làm duyên kia diệt thì các pháp sanh này cũng tùy theo đó diệt, vắng lặng, mát mẻ, chân thật.
Tôn giả Nan-đà bảo các Tỳ-kheo-ni:
– Lành thay! Quý Tỳ-kheo-ni, đối với nghĩa này nên như thật quán sát, do những pháp kia làm duyên sanh những pháp này; những pháp làm duyên kia diệt thì các pháp sanh này cũng tùy theo đó diệt, vắng lặng, mát mẻ, chân thật.
Quý cô, xin hãy nghe tôi nói ví dụ, người trí do ví dụ sẽ hiểu rõ. Ví như người đồ tể giết trâu thiện nghệ, hoặc người học trò của ông ta, tay cầm dao bén mổ trâu, lách ở giữa, lột da mà không chạm phần thịt bên trong, cũng không rách phần da ở bên ngoài, mổ xẻ chân cẳng gân cốt, sau đó dùng tấm da trâu phủ lên trên. Nếu có người bảo rằng: “Da thịt của con trâu này hoàn toàn không bị cắt xẻ”, lời nói này có đúng không?
Các Tỳ-kheo-ni đáp:
– Thưa Tôn giả Nan-đà, không! Vì cớ sao? Vì người đồ tể thiện nghệ kia và học trò của ông ta tay cầm dao bén, lách ở giữa, lột da, không chạm đến da thịt, nhưng chân, cẳng, gân, xương, tất cả đều đứt hết, lại đem tấm da phủ lên trên thì da thịt bị cắt đã lìa, chẳng phải là không bị cắt lìa.
– Thưa quý cô, tôi sẽ giải thích ý nghĩa ví dụ đó: Con trâu dụ cho sắc thô của thân người (như bài Kinh giỏ rắn độc có nói rộng). Thịt là chỉ cho nội lục nhập xứ. Da ngoài chỉ cho ngoại lục nhập xứ. Người đồ tể chỉ cho kẻ học thấy dấu dao. Gân xương ở khoảng giữa da thịt chỉ cho hai món tham, hỷ. Dao bén chỉ cho trí tuệ lanh lợi. Đa văn Thánh đệ tử dùng dao bén trí tuệ chặt đứt tất cả những ràng buộc, những kiết sử phiền não, những trói buộc của thượng phiền não. Do đó, quý cô nên học như thế. Đối với những pháp đáng yêu thích, tâm không nên đắm trước, là đoạn trừ tham vậy. Đối với những pháp đáng sân hận, tâm cũng không sân hận, là đoạn trừ sân vậy. Đối với những pháp đáng si, tâm không nên si, là đoạn trừ si vậy. Đối với năm thọ ấm phải quán sát sanh diệt. Đối với sáu xúc nhập xứ phải quán tập, diệt. Đối với bốn niệm xứ nên khéo buộc tâm trú thất giác phần; tu bảy giác phần rồi, đối với dục lậu kia tâm sẽ không dính mắc, tâm giải thoát. Đối với hữu lậu, tâm không dính mắc, tâm giải thoát. Đối với vô minh lậu, tâm không dính mắc, tâm được giải thoát. Quý cô nên học như thế.
Tôn giả Nan-đà, sau khi thuyết pháp, khai thị chỉ giáo cho Tỳ-kheo-ni, từ tòa, đứng dậy ra về. Lúc đó, Tỳ-kheo-ni Ma-ha-ba-xà-ba-đề cùng đi với năm trăm Tỳ-kheo-ni quyến thuộc vây quanh đến chỗ Phật, cúi đầu lễ Phật, lui đứng một bên,... đảnh lễ Phật rồi trở về. Bấy giờ, Thế Tôn biết Tỳ-kheo-ni Ma-ha-ba-xà-ba-đề đã về, Ngài mới bảo các Tỳ-kheo:
– Ví như đêm mười bốn trăng sáng, nhiều người ngắm trăng, có tròn hay chưa tròn? Nên biết vầng trăng ấy chưa tròn lắm.
Như thế, thiện nam tử Nan-đà vì năm trăm Tỳ-kheo-ni thuyết pháp dạy dỗ, đối với sự giải thoát của họ, cũng vẫn chưa rốt ráo, nhưng những Tỳ-kheo-ni này khi mạng chung không có một kiết sử nào mà không đoạn, có thể khiến cho họ sanh trở lại đời này.
Bấy giờ, Thế Tôn lại bảo Nan-đà:
– Hãy thuyết pháp cho các Tỳ-kheo-ni!
Lúc ấy, Tôn giả Nan-đà im lặng vâng lời. Sáng hôm sau, Tôn giả mang bát vào thành khất thực. Thọ trai xong, Tôn giả đi tới vườn vua, rồi ngồi xuống tòa vì các Tỳ-kheo-ni thuyết pháp, khai thị, chỉ giáo, chỉ giáo xong, rời khỏi tòa, đứng dậy ra về. Tỳ-kheo-ni Ma-ha-ba-xà-ba-đề, lúc khác cùng năm trăm Tỳ-kheo-ni trước sau vây quanh, đến chỗ Phật, cúi đầu lễ chân Phật, cho đến đảnh lễ lui về.
Thế Tôn biết Tỳ-kheo-ni Ma-ha-ba-xà-ba-đề đã đi rồi, bảo các Tỳ-kheo:
– Ví như đêm rằm trăng sáng, không còn ai nghi ngờ vầng trăng tròn hay không tròn, nhưng vầng trăng kia tròn đầy như thiện nam tử Nan-đà vì các Tỳ-kheo-ni truyền dạy đúng như thế, giải thoát rốt ráo, nếu lúc mạng chung, dù không có người nói cho họ biết sẽ đi về đâu thì họ cũng tự biết đây là giải thoát khổ.
Khi ấy, Thế Tôn thọ ký cho năm trăm Tỳ-kheo-ni chứng quả Tu-đà-hoàn.
Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo vâng lời Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.