Tam tạng Thánh điển PGVN 20 » Tam tạng Phật giáo Bộ phái 04 »
Hòa Thượng THÍCH THIỆN SIÊU
Hòa Thượng THÍCH THANH TỪ
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật trú tại nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, trong vườn Cấp Cô Độc.
Bấy giờ, có Tỳ-kheo kia một mình ở chỗ vắng, tư duy: “Thế nào là ngã? Ngã làm gì? Những gì là ngã? Ngã trụ ở đâu?”
Sau khi tọa thiền, Tỳ-kheo ấy đi đến chỗ Phật, cúi đầu lễ dưới chân Phật, đứng lên bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn, con một mình ở chỗ vắng tư duy: “Thế nào là ngã? Ngã làm gì? Những gì là ngã? Ngã trụ ở đâu?”
Phật bảo Tỳ-kheo:
– Nay Ta sẽ vì thầy nói hai pháp, thầy nên lắng nghe, khéo suy nghĩ. Thế nào là hai? Mắt và sắc là hai. Tai và tiếng, mũi và mùi, lưỡi và vị, thân và xúc, ý và pháp. Đó gọi là hai pháp. Nếu có người nói rằng: “Sa-môn Cù-đàm nói hai pháp, đây chẳng phải là hai, tôi sẽ bỏ cái này và lập hai pháp khác.” Người kia chỉ có nói nhưng hỏi vài lần vẫn không biết, càng tăng thêm nghi hoặc, vì chẳng phải là cảnh giới của họ. Vì cớ sao? Vì duyên mắt và sắc sanh ra nhãn thức. Này Tỳ-kheo, mắt kia là mắt thịt, hoặc bên trong, là nhân duyên, là cứng, là cảm thọ. Đó gọi là nội địa giới của mắt thịt. Này Tỳ-kheo, nếu mắt thịt hoặc bên trong, hoặc nhân duyên, chất nước từ mắt tiết ra, đó gọi là thọ. Đó gọi là nội thủy giới của mắt thịt. Này Tỳ-kheo, nếu con mắt thịt kia, hoặc bên trong, hoặc nhân duyên, phát ra ánh sáng ấm nóng, đó là thọ. Đó gọi là nội hỏa giới của mắt thịt. Này Tỳ-kheo, nếu mắt thịt kia hoặc ở trong, hoặc nhân duyên, dao động nhẹ nhàng, đó gọi là thọ. Đó là nội phong giới của mắt thịt. Này Tỳ-kheo, ví như hai tay hiệp lại tạo thành âm thanh, như thế duyên mắt và sắc sanh ra nhãn thức. Ba việc hòa hợp sanh xúc, xúc sanh ra thọ, tưởng và tư. Các pháp này chẳng phải ngã, chẳng phải thường mà là cái ngã vô thường, chẳng phải hằng, chẳng phải an ổn, mà là cái ngã biến đổi. Vì cớ sao? Này Tỳ-kheo, nghĩa là các pháp thọ sanh về sanh, già, bệnh, chết chưa mất.
Này Tỳ-kheo, các hành như huyễn, như sóng nắng, trong khoảng sát-na, bị tàn lụi, không thật đến, không thật đi. Thế nên Tỳ-kheo, đối với các hành không, hãy nên biết, nên vui, nên niệm, luôn luôn trụ các hành không, pháp không, biến đổi, không, vô ngã và ngã sở. Ví như người mắt sáng tay cầm đèn sáng vào trong nhà trống, xem xét cái nhà ấy.
Như thế Tỳ-kheo đối với tất cả tâm không, hành không, quán sát vui vẻ. Đối với pháp hành không, phải luôn luôn trụ pháp không, biến đổi, không, vô ngã và ngã sở. Như mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý và pháp làm nhân duyên sanh ra ý thức; ba sự hòa hợp thành xúc; xúc sanh ra thọ, tưởng, tư; các pháp này vô ngã, vô thường, cho đến không, vô ngã và ngã sở. Tỳ-kheo, ý thầy thế nào? Mắt là thường hay vô thường?
– Bạch Thế Tôn, vô thường!
Phật lại hỏi:
– Nếu vô thường là khổ chăng?
– Bạch Thế Tôn, là khổ!
Phật lại hỏi:
– Nếu vô thường, khổ, là pháp biến dịch, đa văn Thánh đệ tử có nên ở trong ấy thấy là ngã, khác ngã, hoặc ở trong nhau chăng?
– Bạch Thế Tôn, không!
– Tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng lại như thế. Như vậy đa văn Thánh đệ tử đối với mắt sanh nhàm chán, nhàm chán nên không ưa thích, không ưa thích nên giải thoát, giải thoát tri kiến: “Sự sanh của ta đã dứt, Phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm xong, tự biết không còn thọ thân sau.” Tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng lại như thế.
Tỳ-kheo ấy nghe Phật thuyết về kinh ví dụ hai tay hợp lại phát tiếng, một mình đi đến chỗ vắng, tinh cần tư duy, sống không buông lung,... tự biết không còn thọ thân sau, thành A-la-hán.
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.