Tam tạng Thánh điển PGVN 20 » Tam tạng Phật giáo Bộ phái 04 »
Hòa Thượng THÍCH THIỆN SIÊU
Hòa Thượng THÍCH THANH TỪ
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật trú tại nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, trong vườn Cấp Cô Độc.
Khi ấy, có Tỳ-kheo kia, trong khi thiền định, tư duy rằng: “Có sắc thường hằng, không biến đổi, chánh trụ chăng? Như vậy, thọ, tưởng, hành, thức thường hằng, không biến đổi, chánh trụ chăng?”
Buổi chiều sau giờ tọa thiền, Tỳ-kheo này đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ chân Phật, đứng qua một bên, bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn, con trong lúc ngồi thiền, tư duy khởi niệm: “Có sắc thường hằng, không biến đổi, chánh trụ chăng? Cũng thế, thọ, tưởng, hành, thức thường hằng, không biến đổi, chánh trụ chăng?” Nay bạch Thế Tôn, có sắc thường hằng, không biến đổi, chánh trụ chăng? Có thọ, tưởng, hành, thức thường hằng, không biến đổi, chánh trụ chăng?
Bấy giờ, Thế Tôn tay cầm một nắm đất nhỏ, hỏi Tỳ-kheo ấy:
– Thầy có thấy nắm đất trong tay Ta không?
Tỳ-kheo bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn, con có thấy!
– Này Tỳ-kheo, như thế ấy, nếu cái ngã bằng một chút xíu đất cũng không thể được. Nếu cái ngã có thể được thì đó là pháp thường hằng, không biến đổi, chánh trụ.
Phật lại nói:
– Ta nhớ lại đời trước, tu phước lâu dài, được các sự thắng diệu và quả báo khả ái. Ta đã từng bảy năm tu tập tâm từ, trải qua bảy kiếp thành hoại, Ta không trở lại cõi đời này. Lúc bảy kiếp hoại, Ta sanh lên Quang Âm thiên; lúc bảy kiếp thành, Ta lại sanh lên cõi Phạm, làm Đại Phạm Vương ở trong cung điện giữa hư không, không ai hơn, không ai trên, thống lãnh cả ngàn thế giới. Từ đó về sau, ba mươi sáu lần Ta làm Đế-thích, rồi lại trăm ngàn lần làm Chuyển Luân Thánh Vương, thống lãnh tứ thiên hạ, đem Chánh pháp giáo hóa cai trị, bảy báu đầy đủ, gồm có xe báu, voi báu, ngựa báu, ma-ni báu, ngọc nữ báu, kho báu, đại thần báu và chủ binh báu. Ta có đầy đủ ngàn đứa con, tất cả đều dũng kiện, ở trong bốn biển, đất đai bằng phẳng, không có gai độc, chẳng dùng uy thế, cũng chẳng bức bách, chỉ dùng Chánh pháp để điều phục. Pháp vua quán đảnh có tám muôn bốn ngàn long tượng được trang sức bằng các báu trang nghiêm, lưới báu phủ lên, dựng lập cờ báu, trong đó tượng vương Bố-tát dẫn đầu, sáng chiều hai thời tự hội họp trước điện. Bấy giờ Ta nghĩ thầm: “Bầy voi to lớn này, mỗi ngày vãng lai đạp chết chúng sanh vô số, Ta muốn khiến cho bốn muôn hai ngàn voi này, một trăm năm đến một lần”, liền được như sự mong ước, bốn muôn hai ngàn voi, một trăm năm đến một lần. Pháp vua quán đảnh lại có tám muôn bốn ngàn thớt ngựa cũng lấy vàng rồng làm xe cưỡi, lưới vàng phủ lên, Bà-la mã vương dẫn đầu. Pháp vua quán đảnh có tám muôn bốn ngàn loại xe báu như xe vàng, xe bạc, xe lưu ly, xe pha lê, da sư tử, cọp, beo, tạp sắc, xe Khâm-bà-la, che phủ lên trên, xe Bạt-cầu, Tỳ-xà-gia, Nan-đề âm thanh dẫn đầu. Pháp vua quán đảnh thống lãnh tám muôn bốn ngàn thành an vui, phồn thịnh, nhân dân đông đúc do Vua Câu-xá-bà-đề dẫn đầu. Pháp vua quán đảnh có tám muôn bốn ngàn loại cung điện gồm vàng, bạc, lưu ly, pha lê, ma-ni, lưu ly, do-ha là hơn hết. Pháp vua quán đảnh có tám muôn bốn ngàn loại giường báu, bằng các thứ như vàng, bạc, lưu ly, pha lê, các thứ nệm lụa quý, ngọa cụ ca-lăng-già để trải lên trên và đặt gối đỏ. Lại nữa, Tỳ-kheo, pháp vua quán đảnh lại có tám muôn bốn ngàn thứ y phục như y ca-thi-tế, y sô-ma, y đầu-cưu-la, y câu-chiên-bà. Lại nữa, Tỳ-kheo, pháp vua quán đảnh có tám muôn bốn ngàn ngọc nữ như Sát-lợi nữ, tương tợ Sát-lợi nữ, huống lại là các người nữ khác. Lại nữa, Tỳ-kheo, pháp vua quán đảnh có tám muôn bốn ngàn thức ăn uống đầy mỹ vị. Này Tỳ-kheo, trong tám muôn bốn ngàn ngọc nữ, vua chỉ chọn một người để hầu hạ vua; trong tám muôn bốn ngàn y phục báu, vua chỉ mặc có một y; trong tám muôn bốn ngàn giường báu, vua chỉ nằm một giường; trong tám muôn bốn ngàn cung điện, vua chỉ có một cung; trong tám muôn bốn ngàn thành, vua chỉ ở có một thành gọi là Câu-xá-bà-đề; trong tám muôn bốn ngàn xe báu, vua chỉ cưỡi một xe gọi là Tỳ-xà-giá-na-đề-cù-sa, ra khỏi thành du lãm; trong tám muôn bốn ngàn thớt ngựa báu, vua chỉ cưỡi một con tên là Bà-la-ha, lông đuôi sắc biếc; trong tám vạn bốn ngàn long tượng, vua chỉ cưỡi một con tên là Bố-tát-đà, ra ngoài thành du ngoạn. Này Tỳ-kheo, đây là nghiệp báo gì được oai đức tự tại như vậy? Đây là ba thứ nghiệp báo. Những gì là ba? Một là bố thí, hai là điều phục, ba là tu đạo. Tỳ-kheo nên biết, kẻ phàm phu tập nhiễm năm dục, không biết đủ, không biết chán. Thánh nhân trí tuệ thành tựu đầy đủ mà luôn luôn biết đủ. Này Tỳ-kheo, tất cả các hành quá khứ đã diệt hết, quá khứ biến dịch. Các vật tự nhiên có được và danh tiếng, tất cả đều hoại diệt. Vì thế Tỳ-kheo phải dứt hẳn các hành, chán lìa, đoạn dục, giải thoát.
Này Tỳ-kheo, sắc là thường hay vô thường?
Tỳ-kheo ấy bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn, vô thường!
– Nếu vô thường là khổ chăng?
Tỳ-kheo ấy bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn, là khổ!
– Này Tỳ-kheo, nếu là vô thường, khổ thì đó là pháp biến dịch, Thánh đệ tử có nên ở trong ấy chấp là ngã, khác ngã, hoặc ở trong nhau chăng?
Tỳ-kheo ấy bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn, không!
– Như vậy thọ, tưởng, hành, thức là thường hay vô thường?
Tỳ-kheo ấy bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn, vô thường!
– Nếu vô thường là khổ chăng?
– Bạch Thế Tôn, là khổ!
– Này Tỳ-kheo, nếu vô thường, khổ, đó là pháp biến dịch, Thánh đệ tử có nên ở trong đó chấp là ngã, khác ngã, hoặc ở trong nhau chăng?
Tỳ-kheo ấy bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn, không!
Phật bảo Tỳ-kheo ấy:
– Những gì thuộc về sắc hoặc quá khứ, hoặc vị lai, hoặc hiện tại, hoặc trong ngoài, hoặc thô tế, hoặc tốt xấu, hoặc xa gần, tất cả thứ ấy đều chẳng phải là ngã, chẳng khác ngã, chẳng ở trong nhau. Như vậy, thọ, tưởng, hành, thức hoặc quá khứ, hoặc vị lai, hoặc hiện tại, hoặc trong ngoài, hoặc thô tế, hoặc tốt xấu, hoặc xa gần, tất cả đều chẳng phải ngã, chẳng khác ngã và chẳng ở trong nhau. Này Tỳ-kheo, đối với sắc nên sanh tâm nhàm chán, xa lìa, muốn giải thoát. Cũng thế đối với thọ, tưởng, hành, thức, nên sanh tâm nhàm chán, lìa dục, giải thoát, giải thoát tri kiến: “Sự sanh của ta đã dứt, Phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm xong, tự biết không còn thọ thân sau.”
Tỳ-kheo ấy nghe lời Phật dạy, phấn khởi vui mừng, đảnh lễ Phật rồi lui ra, thường hay nghĩ đến lời dạy về ví dụ nắm đất và ở một mình, chỗ vắng vẻ, tinh cần tư duy, sống không buông lung, nhờ sống không buông lung, mà thiện nam tử này cạo bỏ râu tóc, chánh tín, không nhà, xuất gia học đạo, lấy Phạm hạnh vô thượng làm cứu cánh, thấy pháp, tự biết tác chứng: “Sự sanh của ta đã dứt, Phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm xong, tự biết không còn thọ thân sau.”
Bấy giờ, Tôn giả ấy cũng tự biết pháp, tâm được giải thoát, thành A-la-hán.
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.