Viện Nghiên Cứu Phật Học

Tam tạng Thánh điển PGVN 20 » Tam tạng Phật giáo Bộ phái 04 » 

KINH TẠP A-HÀM
(雜阿含經)

Hòa Thượng THÍCH THIỆN SIÊU
Hòa Thượng THÍCH THANH TỪ

Mục Lục

KINH SỐ 254
 

Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật trú tại thành Vương Xá, trong Vườn Trúc Ca-lan-đà.
Bấy giờ, Tôn giả Nhị Thập Ức Nhĩ ở núi Kỳ-xà quật, thường tinh cần tu tập pháp Bồ-đề phần. Khi ấy, Tôn giả Nhị Thập Ức Nhĩ một mình tư duy, khởi nghĩ rằng: “Ở trong hàng đệ tử Thanh văn tinh cần của Thế Tôn, ta là người trong số đó, nhưng hôm nay ta chưa dứt hết các lậu. Ta là người dòng quý tộc, có nhiều tài sản quý báu, nay thà hoàn tục, hưởng thụ ngũ dục, rồi làm phước bố thí rộng rãi tốt hơn.”
Bấy giờ, Thế Tôn biết ý nghĩ trong tâm của Nhị Thập Ức Nhĩ, Ngài bảo một vị Tỳ-kheo:
– Thầy hãy đến chỗ Nhị Thập Ức Nhĩ, nói là Thế Tôn gọi.
Tỳ-kheo này vâng lời đi đến chỗ Nhị Thập Ức Nhĩ, nói rằng:
– Thế Tôn gọi Hiền giả.
Nhị Thập Ức Nhĩ nghe Tỳ-kheo kia nói bậc Đạo sư gọi, liền vội vàng đến chỗ Thế Tôn, lễ dưới chân, rồi ngồi xuống một bên.
Thế Tôn bảo Nhị Thập Ức Nhĩ:
–Thầy có thật một mình ở chỗ vắng tư duy, khởi lên ý nghĩ như vầy: “Trong hàng Thanh văn tu học tinh cần của Thế Tôn, ta là người trong số ấy, nhưng nay ta chưa được lậu tận, giải thoát. Ta là người dòng quý tộc, có nhiều tiền tài, thà hoàn tục hưởng thụ ngũ dục, rồi làm phước bố thí rộng rãi tốt hơn”, có phải như thế không?
Khi ấy, Nhị Thập Ức Nhĩ nghĩ rằng: “Thế Tôn đã biết tâm của ta”, kinh ngạc sợ hãi, lông dựng đứng, bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn, thật vậy!
Phật bảo Nhị Thập Ức Nhĩ:
– Nay Ta hỏi thầy, thầy tùy ý trả lời Ta. Này Nhị Thập Ức Nhĩ, lúc thầy còn ở thế tục, thầy đàn hay lắm phải không?
– Dạ, đúng vậy!
Thế Tôn lại hỏi:
– Ý thầy nghĩ sao, khi thầy đàn, nếu sợi dây đàn thẳng quá thì âm thanh có hòa nhã, vi diệu không?
– Thưa không!
Thế Tôn lại hỏi:
– Thế nào, nếu sợi dây đàn chùng quá thì có phát ra âm thanh hòa nhã, vi diệu không?
– Thưa không!
Thế Tôn lại hỏi:
– Thế nào, nếu điều chỉnh dây đàn, không chùng, không thẳng sau mới phát ra âm thanh vi diệu phải không?
– Đúng vậy, bạch Thế Tôn!
Phật bảo Nhị Thập Ức Nhĩ:
– Người tinh tấn thái quá chỉ tăng thêm trạo hối, người thiếu tinh tấn thì sanh ra biếng nhác. Thầy nên giữ mức tu tập điều độ, chớ đắm trước, chớ buông lung, chớ chấp tướng.
Tôn giả Nhị Thập Ức Nhĩ nghe Phật dạy xong, vui mừng làm lễ lui về.
Bấy giờ, Tôn giả Nhị Thập Ức Nhĩ thường nghĩ đến ví dụ về dây đàn mà Thế Tôn dạy. Tôn giả một mình ở chỗ vắng tư duy, thiền định những lời nói trên cho đến lậu tận, tâm được giải thoát, thành A-la-hán. Bấy giờ, Tôn giả Nhị Thập Ức Nhĩ đắc A-la-hán, bên trong cảm giác an lạc giải thoát, khởi nghĩ rằng: “Nay ta nên đến thăm viếng Thế Tôn.” Tôn giả liền đi đến chỗ Phật, lễ chân Phật, ngồi xuống một bên, bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn, ở trong pháp của Thế Tôn, con đắc A-la-hán, sạch các hữu lậu, việc làm đã xong, như trút bỏ gánh nặng, được lợi ích cho chính mình, dứt sạch các hữu kiết sử, chánh trí, tâm giải thoát; ngay lúc đó giải thoát sáu xứ. Thế nào là sáu?
Lìa dục được giải thoát, Lìa nhuế được giải thoát,
Xa lìa được giải thoát, Ái sạch được giải thoát,
Các thủ được giải thoát, Tâm không quên niệm giải thoát.
Bạch Thế Tôn, nếu có người nương nơi một ít tín tâm mà nói lìa dục, giải thoát, điều này chẳng đúng. Tham, nhuế, si dứt sạch thì gọi là chân thật lìa dục, giải thoát. Nếu lại có người nương nơi một ít trì giới mà nói được lìa nhuế, giải thoát, điều này cũng không đúng. Tham, nhuế, si dứt sạch mới gọi là chân thật lìa nhuế, giải thoát. Nếu lại có người nương nơi tu tập, xa lìa lợi dưỡng mà nói xa lìa được dục, giải thoát, điều này cũng không đúng. Tham, nhuế, si dứt sạch mới là chân thật xa lìa dục, giải thoát. Tham, nhuế, si dứt sạch cũng gọi là lìa ái, cũng gọi là lìa thủ, cũng gọi là lìa thất niệm, được giải thoát. Như thế, bạch Thế Tôn, nếu các Tỳ-kheo chưa đắc A-la-hán, chưa sạch các lậu, đối với sáu xứ này, không được giải thoát. Nếu lại có Tỳ-kheo còn ở học địa, chưa được tăng thượng an vui Niết-bàn, bèn tu tập hướng về trụ tâm, bấy giờ thành tựu học giới, thành tựu học căn, sau đó được lậu tận, không còn phiền não, tâm giải thoát, tự biết không còn thọ thân sau, ngay hiện tại được vô học giới, được vô học các căn. Ví như đứa trẻ sơ sanh nằm ngửa, ngu ngơ, khi ấy chỉ thành tựu các căn của một đứa trẻ, rồi sau đó dần dần tăng trưởng thành tựu các căn; bấy giờ mới thành tựu các căn của người lớn. Người còn ở học địa cũng lại như vậy, chưa được tăng thượng an lạc,... thành tựu vô học giới, vô học các căn. Nếu mắt thường phân biệt sắc thì vẫn trọn không chướng ngại, tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Vì ý đã kiên trụ, bên trong đã tu vô lượng thiện giải thoát, quán sát sanh diệt cho đến vô thường. Tai phân biệt âm thanh, mũi phân biệt mùi hương, lưỡi phân biệt vị, thân phân biệt xúc, ý phân biệt pháp trần thì cũng không thể chướng ngại, tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Vì ý đã kiên trụ, bên trong đã tu vô lượng thiện giải thoát, quán sát sanh diệt. Ví như ở gần thôn ấp, có núi đá lớn không chẻ, không đập vỡ, không đục thủng được vì núi dày đặc; giả sử gió bốn phương thổi đến không thể làm lay động, không thể xuyên qua. Bậc Vô học kia cũng lại như thế. Mắt thường phân biệt sắc,... ý thường phân biệt pháp, cũng không thể trở ngại, tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Vì ý đã kiên trụ, bên trong tu vô lượng thiện giải thoát, quán sát sanh diệt.
Bấy giờ, Nhị Thập Ức Nhĩ lặp lại bằng bài kệ:
Lìa dục, tâm giải thoát, Không nhuế, cũng giải thoát,
Xa lìa, tâm giải thoát, Tham ái trọn không còn.
Tám giải thoát các thủ, Và ý không thất niệm,
Rõ ràng nhập xứ sanh, Nơi kia tâm giải thoát.
Người được tâm giải thoát, Tỳ-kheo ý dừng nghỉ,
Các việc đã làm xong, Không còn việc để làm.
Giống như núi đá lớn, Bốn gió không thể động,
Sắc, thanh, hương, vị, xúc, Và những pháp tốt xấu,
Đối diện sáu nhập xứ, Không thể động tâm kia,
Tâm thường trụ vững chắc, Quán sát pháp sanh diệt.
Khi Tôn giả Nhị Thập Ức Nhĩ nói pháp này, bậc Đạo sư trong lòng vui vẻ, các vị đa văn Phạm hạnh nghe những điều Tôn giả Nhị Thập Ức Nhĩ nói ra, đều rất hoan hỷ. Bấy giờ, Tôn giả Nhị Thập Ức Nhĩ nghe Phật thuyết pháp xong, vui vẻ, tùy hỷ, làm lễ lui ra.
Lúc ấy, Thế Tôn biết Tôn giả Nhị Thập Ức Nhĩ đi ra chưa lâu, mới bảo các Tỳ-kheo:
– Người tâm khéo giải thoát nên nói như thế, giống như Nhị Thập Ức Nhĩ, do trí tuệ nói quyết định, không tự cao, cũng không khinh người, nói đúng sự thật, không phải như những người tăng thượng mạn, không có được việc này mà tự khen ngợi được pháp hơn người, để tự mình phải bị tổn giảm.

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.