Viện Nghiên Cứu Phật Học

Tam tạng Thánh điển PGVN 20 » Tam tạng Phật giáo Bộ phái 04 » 

KINH TẠP A-HÀM
(雜阿含經)

Hòa Thượng THÍCH THIỆN SIÊU
Hòa Thượng THÍCH THANH TỪ

Mục Lục

KINH SỐ 253
 

Tôi nghe như vầy:
Một thời, Tôn giả Ưu-đà-di đến nước Câu-tát-la, đi du hành trong nhân gian, đến thôn Cưu-bàn-trà, trú ngụ trong vườn Am-la của nữ Bà-la-môn Tỳ-nữu Ca-chiên-diên.
Bấy giờ, có những người đệ tử nhỏ tuổi của Tỳ-nữu Ca-chiên-diên đi đốn củi trong vườn Am-la, thấy Tôn giả Ưu-đà-di ngồi dưới một cội cây, dung mạo đoan chánh, các căn vắng lặng, tâm ý an trụ, thành tựu sự điều phục bậc nhất, thấy ngài rồi bèn đi đến hỏi thăm và ngồi xuống một bên. Khi ấy, Ưu-đà-di vì các thiếu niên thuyết các thứ pháp, khích lệ xong, rồi im lặng. Sau khi nghe Tôn giả nói xong, các thiếu niên đều vui vẻ đứng dậy chào về. Các thiếu niên ấy gánh củi trở về chỗ nữ Bà-la-môn Tỳ-nữu Ca-chiên-diên, đặt củi xuống đất, đi đến chỗ nữ Bà-la-môn, thưa:
– Thưa thầy, trong vườn Am-la có Sa-môn Ưu-đà-di, dòng họ Cù-đàm, đang ở đó thuyết pháp rất hay.
Nữ Bà-la-môn nói với các thiếu niên:
– Các con hãy đến mời Sa-môn Ưu-đà-di họ Cù-đàm ngày mai đến đây dùng cơm.
Khi ấy, các đệ tử nhỏ vâng lời nữ Bà-la-môn, đi đến chỗ Tôn giả Ưu-đà-di và thưa:
– Thầy con là nữ Bà-la-môn Tỳ-nữu dòng Ca-chiên-diên mời Tôn giả ngày mai dùng cơm.
Khi ấy, Tôn giả Ưu-đà-di im lặng nhận lời. Các thiếu niên biết Tôn giả Ưu-đà-di im lặng nhận lời rồi, trở về thưa với nữ Bà-la-môn:
– Thưa thầy, chúng con đã mời Tôn giả, Tôn giả im lặng nhận lời.
Bấy giờ, Tôn giả Ưu-đà-di, qua khỏi đêm, sáng sớm, đắp y, mang bát đến nhà của nữ Bà-la-môn. Nữ Bà-la-môn trông thấy Tôn giả đến, vội trải sàng tòa mời ngồi, bày các thức ăn uống, tự tay cúng dường món ngon đầy đủ. Sau khi ăn xong, xỉa răng, rửa bát, Tôn giả trở lại chỗ ngồi. Nữ Bà-la-môn biết ngài đã dùng xong, bà mang một đôi giày tốt, lấy áo trùm đầu, đặt một cái ghế cao, tỏ ý khinh thường, ngạo mạn ngồi xuống, nói với Tôn giả Ưu-đà-di:
– Tôi có điều muốn hỏi, ngài có rảnh để trả lời cho chăng?
Tôn giả Ưu-đà-di đáp:
– Thưa cô, hôm nay không đúng lúc.
Tôn giả nói như thế xong, rồi đứng dậy ra đi. Đến sáng hôm sau, các đệ tử lại đến vườn Am-la đốn củi, nghe pháp và trở về thưa lại với thầy, rồi thầy lại sai đến mời Tôn giả Ưu-đà-di dùng cơm. Ba lần đến thỉnh pháp như thế đều bị Tôn giả Ưu-đà-di trả lời là không đúng lúc. Tôn giả không chịu thuyết pháp. Các đệ tử trẻ tuổi lại thưa với thầy:
– Trong vườn Am-la, Sa-môn Ưu-đà-di thuyết pháp rất hay.
Vị thầy đáp:
– Ta cũng biết ông ấy thuyết pháp rất hay, mời ba lần đến, cúng dường và hỏi pháp đều bị từ chối, nói là không đúng lúc rồi bỏ đi.
Các đệ tử thưa với thầy của họ:
– Thầy mang đôi giày tốt, lại lấy áo che đầu và dáng ngồi của thầy không cung kính thì Tôn giả ấy làm sao mà thuyết pháp được! Vì sao? Vì Tôn giả Ưu-đà-di kia rất kỉnh pháp nên không nói mà bỏ đi.
Vị thầy trả lời:
– Nếu như thế thì các con vì ta đến mời ông ấy một lần nữa.
Các đệ tử vâng lời đi thỉnh cúng dường như trước.
Sau khi vị thầy biết Tôn giả Ưu-đà-di ăn uống xong, bà liền cởi giày, sửa lại y phục, ngồi xuống một cái ghế thấp, cung kính thưa:
– Thưa Tôn giả, tôi có điều muốn hỏi. Ngài có rảnh để trả lời cho chăng?
Tôn giả Ưu-đà-di trả lời:
– Cô cứ hỏi tự nhiên, tôi sẽ vì cô giảng nói.
Vị thầy ấy liền hỏi:
– Có Sa-môn, Bà-la-môn nói khổ vui tự tác, lại có người nói khổ vui tha tác, lại có người nói khổ vui tự tác và tha tác, lại có người nói khổ vui chẳng phải tự tác, chẳng phải tha tác. Còn Tôn giả thì thế nào?
Tôn giả Ưu-đà-di đáp:
– Thưa cô, A-la-hán nói khổ vui do cái khác sanh chứ chẳng phải nói như trên.
Nữ Bà-la-môn lại hỏi:
– Nghĩa này thế nào?
Tôn giả Ưu-đà-di đáp:
– A-la-hán nói từ nhân duyên sanh các khổ vui.
Tôn giả Ưu-đà-di lại nói với nữ Bà-la-môn:
– Bây giờ tôi hỏi, cô tùy ý trả lời tôi. Ý cô thế nào, có mắt không?
– Thưa có!
– Có sắc không?
– Thưa có!
– Có mắt phân biệt, mắt tiếp xúc, mắt tiếp xúc làm nhân duyên sanh ra cảm thọ hoặc khổ, hoặc vui, hoặc không khổ không vui chăng?
– Như thế, thưa Tôn giả!
Tôn giả Ưu-đà-di lại hỏi:
– Có tai, mũi, lưỡi, thân, ý tiếp xúc làm nhân duyên sanh ra cảm thọ hoặc khổ, hoặc vui, hoặc không khổ không vui chăng?
– Như thế, thưa Tôn giả!
Tôn giả Ưu-đà-di nói:
– Đó là điều A-la-hán nói từ nhân duyên sanh ra khổ vui.
Nữ Bà-la-môn thưa với Tôn giả Ưu-đà-di:
– Như thế là A-la-hán nói từ nhân duyên sanh ra khổ vui phải không?
Tôn giả Ưu-đà-di đáp:
– Đúng vậy, nữ Bà-la-môn!
Nữ Bà-la-môn lại hỏi:
– Thưa Tôn giả, vì sao A-la-hán nói là nhân duyên sanh ra khổ vui và từ nhân duyên không khổ không vui diệt?
Tôn giả Ưu-đà-di đáp:
– Bây giờ tôi hỏi, cô tùy ý trả lời tôi. Này nữ Bà-la-môn, tất cả mắt, tất cả thời diệt hết không còn gì thì còn có mắt tiếp xúc làm nhân duyên sanh ra cảm thọ, bên trong cảm giác hoặc khổ, hoặc vui, hoặc không khổ không vui chăng?
– Thưa không!
– Như thế tai, mũi, lưỡi, thân, ý tất cả diệt hết không còn gì thì còn có ý tiếp xúc làm nhân duyên sanh ra cảm thọ, bên trong cảm giác hoặc khổ, hoặc vui, hoặc không khổ không vui chăng?
– Thưa không!
– Như thế, này nữ Bà-la-môn, A-la-hán nói là nhân duyên sanh ra khổ vui và từ nhân duyên không khổ không vui diệt.
Khi Tôn giả Ưu-đà-di nói pháp này, nữ Bà-la-môn Tỳ-nữu Ca-chiên-diên xa lìa trần cấu, được pháp nhãn thanh tịnh.
Bấy giờ, nữ Bà-la-môn Tỳ-nữu Ca-chiên-diên thấy pháp, biết pháp, nhập pháp, dứt hết những nghi hoặc, không do người khác, thâm nhập giáo pháp Phật. Đối với pháp không sợ hãi, vị ấy từ chỗ ngồi đứng lên, sửa lại y phục, cung kính chắp tay thưa với Tôn giả Ưu-đà-di:
– Hôm nay con quyết định ngay từ bây giờ, xin quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, con từ bây giờ cho đến trọn đời quy y Tam bảo.
Khi ấy, Tôn giả Ưu-đà-di vì nữ Bà-la-môn thuyết pháp, khai thị, chỉ giáo rõ ràng rồi, vui vẻ đứng dậy ra về.

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.