Viện Nghiên Cứu Phật Học

Tam tạng thánh điển PGVN 21 » Tam tạng Phật giáo Bộ phái 05

QUYỂN 6

 

136. NGUYÊN NHÂN SANH TỬ (1)[1]

 

Tôi nghe như vầy:

Một thời, đức Phật ngụ ở vườn Cấp Cô Ðộc, trong rừng Kỳ-đà, thuộc nước Xá-vệ.

Bấy giờ, Thế Tôn hỏi các Tỳ-kheo:

– Này các Tỳ-kheo! Do có cái gì, do tập khởi cái gì, do dính mắc nơi cái gì, do chấp ngã nơi cái gì khiến chúng sanh bị vô minh che lấp, bị ái buộc cổ, phải rong ruổi đường dài, luân hồi sanh tử, lưu chuyển sanh tử không biết đâu là cội nguồn?

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

– Thế Tôn là cội nguồn của giáo pháp, là pháp nhãn, là nơi y cứ của giáo pháp. Kính mong Ngài thuyết giảng cho chúng con! Các Tỳ-kheo sau khi nghe xong sẽ lãnh thọ và phụng hành.

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

– Hãy lắng nghe, khéo suy nghĩ! Ta sẽ giảng cho các thầy. Này các Tỳ kheo! Do có sắc, do sự tập khởi của sắc, do dính mắc nơi sắc, do chấp ngã nơi sắc khiến chúng sanh bị vô minh che lấp, bị ái trói cổ, phải rong ruổi đường dài, luân hồi sanh tử, lưu chuyển sanh tử. Đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy.

Này các Tỳ-kheo! Sắc là thường hay vô thường?

Các Tỳ-kheo đáp:

– Bạch Thế Tôn, là vô thường!

Thế Tôn hỏi:

– Những gì vô thường là khổ chăng?

Các Tỳ-kheo đáp:

– Bạch Thế Tôn, là khổ!

– Thật vậy, này các Tỳ-kheo! Nếu vô thường là khổ thì nỗi khổ này có mặt là do có sắc,[2] do sự tập khởi của sắc, do dính mắc nơi sắc, do chấp ngã nơi sắc khiến chúng sanh bị vô minh che lấp, bị ái trói cổ, phải rong ruổi đường dài, luân hồi sanh tử, lưu chuyển sanh tử. Đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy.

Thế nên, này các Tỳ-kheo! Những gì thuộc về sắc, hoặc quá khứ, hoặc tương lai, hoặc hiện tại, hoặc trong hoặc ngoài, hoặc thô hoặc tế, hoặc đẹp hoặc xấu, hoặc xa hoặc gần thì tất cả chúng chẳng phải ngã, chẳng phải khác ngã, chẳng tồn tại trong nhau. Thấy như vậy gọi là có chánh tuệ. Đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy.

Cũng vậy, cái thấy, cái nghe, cái hay, cái biết, mong cầu, thủ đắc, nhớ nghĩ, cảm nhận, quán xét thì tất cả chúng đều chẳng phải ngã, chẳng phải khác ngã, chẳng tồn tại trong nhau. Thấy như vậy gọi là có chánh tuệ.

Nếu có nhận thức cho rằng có ngã, có đời này, có đời khác, có thường, có hằng, không biến đổi thì tất cả những thứ ấy chẳng phải ngã, chẳng phải khác ngã, chẳng tồn tại trong nhau. Thấy như vậy gọi là có chánh tuệ.

Lại nữa, nếu có nhận thức cho rằng cái này không phải là ngã, không phải là ngã sở, không có ngã ở tương lai, không có ngã sở ở tương lai thì tất cả chúng đều không phải ngã, không phải khác ngã, cũng không tồn tại trong nhau. Thấy như vậy gọi là có chánh tuệ.

Vị Thánh đệ tử đa văn đối với sáu cơ sở kiến chấp này, quán sát chúng không phải là ngã, không phải ngã sở. Quán sát vậy rồi sẽ chấm dứt hoài nghi đối với Phật, đối với Pháp, đối với Tăng. Này các Tỳ-kheo! Đó gọi là vị Thánh đệ tử đa văn không còn tạo nghiệp thân, miệng, ý khiến đọa ba đường ác nữa. Giả sử còn buông lung thì vị Thánh đệ tử đa văn ấy nhất định vẫn hướng đến giác ngộ, tối đa bảy lần tái sanh vào cõi trời, người rồi sẽ chấm dứt khổ đau.

Đức Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo sau khi nghe lời Phật dạy đều hoan hỷ phụng hành.

***

 

Chú thích:

[1] Tựa đề đặt theo nội dung kinh. Tạp. 雜 (T.02. 0099.136. 0042b02).

[2] Nguyên tác bị thiếu chữ sắc (色). Căn cứ vào các yếu tố thọ, tưởng, hành, thức được đề cập ở phần sau nên bổ sung. Phần còn lại của kinh số 133; Tạp. 雜 (T.02. 0099.133. 0041c14).

 

 

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.