Viện Nghiên Cứu Phật Học

Tam tạng thánh điển PGVN 21 » Tam tạng Phật giáo Bộ phái 05

QUYỂN 5

 

110. NI-KIỀN TỬ TÁT-GIÁ[1]

 

Tôi nghe như vầy:

Một thời, đức Phật ở bên ao Di Hầu, tại nước Tỳ-xá-ly.

Bấy giờ, trong nước Tỳ-xá-ly có vị Ni-kiền tử[2] thông tuệ, minh triết, khéo thông hiểu các luận thuyết nên sanh kiêu mạn vì sự thông minh ấy. Vị này nghiên tầm rộng khắp các luận thuyết, với trí sáng suốt, thâm nhập lẽ huyền vi rồi giảng nói cho người hơn hẳn các luận sư khác nên thường nghĩ rằng: “Các Sa-môn, Bà-la-môn không ai địch nổi ta, ngay cả đối với Như Lai nhưng ta cũng có thể cùng với Ngài tranh luận. Các luận sư nghe danh ta thảy đều toát mồ hôi trán, đổ mồ hôi nách, các lỗ chân lông cũng đều đổ mồ hôi. Ta luận nghị như gió, khiến cỏ rạp, cây gãy, đá nát, vàng tan. Hàng long tượng còn bị khuất phục thì huống gì những luận sư ở thế gian làm sao có thể bằng ta.”

Lúc ấy, có Tỳ-kheo A-thấp-bà-thệ[3] vào lúc sáng sớm đắp y, ôm bát, oai nghi tề chỉnh, ánh mắt đoan nghiêm, từng bước khoan thai, vào thành khất thực. Bấy giờ, Ni-kiền tử Tát-giá ấy có vài việc phải vào làng xóm. Từ cổng thành bước ra và trông thấy Tỳ-kheo A-thấp-bà-thệ từ xa, ông liền tiến đến gần và hỏi:

– Sa-môn Cù-đàm nói pháp cho các đệ tử như thế nào? Dùng những pháp gì để dạy đệ tử tu tập?

A-thấp-bà-thệ nói:

– Này cư sĩ Hỏa Chủng![4] Thế Tôn nói pháp như vầy để dạy các đệ tử, khiến họ theo đó tu học. Ngài dạy rằng: “Này các Tỳ-kheo! Đối với sắc phải nên quán vô ngã; đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng nên quán vô ngã. Đối với năm thủ uẩn này, phải gắng tinh tấn quán sát như mầm bệnh, như ung nhọt, như gai nhọn, như sát hại, là vô thường, là khổ, là không, là vô ngã.”

Ni-kiền tử Tát-giá nghe nói như vậy thì không hài lòng, liền nói rằng:

– A-thấp-bà-thệ! Nhất định ông đã nghe lầm, Sa-môn Cù-đàm không hề nói như thế. Nếu Sa-môn Cù-đàm nói như thế thì đó là tà kiến. Tôi sẽ đến chỗ Cù-đàm chất vấn để ngăn chặn tà kiến này.

Thế rồi, Ni-kiền tử Tát-giá đi vào làng, đến chỗ nhóm người Ly-xa[5] đang tụ họp và nói với họ:

– Hôm nay, tôi mới gặp đệ tử đầu tiên của Sa-môn Cù-đàm tên là A-thấp-bà-thệ và có luận nghị sơ qua cùng ông ấy. Nếu đúng như lời ông ấy nói thì tôi sẽ đến chỗ Sa-môn Cù-đàm để cùng luận nghị, xoay chuyển tới lui, ắt theo ý tôi.

Giống như người nhổ cỏ, tay cầm bụi cỏ rồi giũ mạnh giữa không trung, loại bỏ bụi đất. Tôi cũng như thế, khi luận nghị chất vấn với Sa-môn Cù-đàm, sẽ nắm lấy chỗ trọng yếu, xoay chuyển tới lui, đúng theo ý muốn để loại bỏ tà thuyết của ông ấy.

Lại như người nấu rượu cầm túi rượu, lọc lấy nước rượu trong, loại bỏ chất cặn bã. Tôi cũng như thế, đến chỗ Sa-môn Cù-đàm luận nghị chất vấn, xoay chuyển tới lui, nắm lấy chỗ thuần chân, loại bỏ các tà thuyết.

Lại như thợ dệt chiếu, do chiếu có nhiều vết bẩn nên trước khi đem ra chợ bán thì phải lấy nước giặt tẩy, loại bỏ chất bẩn. Tôi cũng như vậy, đến chỗ Sa-môn Cù-đàm luận nghị, xoay chuyển tới lui, nắm lấy chỗ trọng yếu, loại bỏ các tà thuyết.

Lại như người huấn luyện voi của nhà vua, dắt con voi hung hãn xuống chỗ nước sâu, tắm rửa thân thể, bốn chân, tai, mũi, tắm gội toàn thân cho nó để tẩy bỏ cáu bẩn. Tôi cũng như thế, đến chỗ Sa-môn Cù-đàm luận nghị chất vấn,xoay chuyển tới lui, tùy ý tự tại, nắm lấy chỗ trọng yếu, loại bỏ tà thuyết uế tạp. Ly-xa các ông cũng nên cùng tôi đến đó để xem thắng bại.

Có người Ly-xa nói:

– Ni-kiền tử Tát-giá mà có thể bàn luận nghĩa lý với Sa-môn Cù-đàm ư? Điều đó là không thể!

Lại có người nói:

– Ni-kiền tử Tát-giá thông tuệ lợi căn, có thể cùng Sa-môn Cù-đàm bàn luận nghĩa lý.

Thế rồi, năm trăm người Ly-xa cùng theo Ni-kiền tử Tát-giá đến chỗ Phật để bàn luận.

Bấy giờ, Thế Tôn đang ngồi nghỉ trưa[6] bên một cội cây ở trong rừng lớn. Khi ấy, có nhiều Tỳ-kheo ra khỏi phòng, đang kinh hành trong rừng và từ xa trông thấy Ni-kiền tử Tát-giá đang đi tới. Ông ta đến thẳng chỗ các Tỳ-kheo và hỏi:

– Sa-môn Cù-đàm đang ở đâu?

Các Tỳ-kheo đáp:

– Thế Tôn đang ngồi nghỉ trưa bên một cội cây ở trong rừng lớn.

Ni-kiền tử Tát-giá liền đến chỗ Phật, cung kính chào hỏi rồi ngồi qua một bên. Các trưởng giả Ly-xa cũng đi đến chỗ Phật, có người cung kính, có người chắp tay chào hỏi rồi đứng sang một bên.

Bấy giờ, Ni-kiền tử Tát-giá thưa Phật:

– Tôi nghe Cù-đàm thuyết pháp như vầy và truyền dạy cho các đệ tử như vầy: “Đối với sắc nên quán sát vô ngã; với thọ, tưởng, hành, thức cũng nên quán sát vô ngã. Đối với năm thủ uẩn này, phải siêng năng tinh tấn quán sát như mầm bệnh, như ung nhọt, như gai nhọn, như sát hại, là vô thường, là khổ, là không, là vô ngã.” Là Cù-đàm có dạy như vậy hay người đời vẽ vời ra để hủy báng Cù-đàm? Có đúng là lời dạy của Ngài chăng? Hay không đúng lời của Ngài dạy? Nói đúng với giáo pháp và thứ lớp của giáo pháp chăng? Không có ai khác đến chất vấn khiến rơi vào chỗ bế tắc chăng?

Đức Phật nói với Ni-kiền tử Tát-giá:

– Đúng như ông đã nghe, vị ấy nói như lời Ta dạy, nói đúng theo pháp và thứ lớp của giáo pháp, chẳng phải là hủy báng, cũng không có ai chất vấn khiến rơi vào chỗ bế tắc cả. Vì sao như thế? Vì Ta quả thật có thuyết pháp như vậy cho chúng đệ tử. Thật sự, Ta thường dạy chúng đệ tử phải tuần tự thực hành theo pháp,[7] dạy họ phải quán sát sắc vô ngã, quán thọ, tưởng, hành, thức cũng vô ngã, quán năm thủ uẩn này như mầm bệnh, như ung nhọt, như gai nhọn, như sát hại, là vô thường, là khổ, là không, là vô ngã.

Ni-kiền tử Tát-giá bạch Phật:

– Thưa Cù-đàm! Bây giờ, tôi sẽ đưa ra một ví dụ.

Đức Phật bảo:

– Nên biết đúng lúc!

– Ví như tất cả mọi tạo tác ở thế gian đều nương nơi đất; cũng vậy, sắc là tự ngã của con người,[8] mọi việc thiện ác đều từ đây mà sanh; thọ, tưởng, hành, thức là tự ngã của con người, mọi việc thiện ác cũng đều từ đây mà sanh. Lại nữa, ví như cõi người, cõi thần, cỏ thuốc, cây cối đều nương vào đất mà được sanh trưởng; cũng vậy, sắc là tự ngã của người; thọ, tưởng, hành, thức là tự ngã của con người.

Phật nói với cư sĩ Hỏa Chủng:

– Ông cho rằng sắc là tự ngã của con người; thọ, tưởng, hành, thức là tự ngã của con người phải không?

Đáp:

– Đúng vậy, thưa Cù-đàm! Sắc là tự ngã của con người; thọ, tưởng, hành, thức là tự ngã của con người. Mọi người ở đây đều nói như thế.

Phật bảo:

– Ông hãy lập luận theo luận thuyết của mình, đâu cần viện dẫn người khác làm gì?

Ni-kiền tử Tát-giá bạch Phật:

– Sắc thật sự là tự ngã của con người.

Đức Phật bảo cư sĩ Hỏa Chủng:

 – Nay Ta hỏi ông, hãy tùy ý mà trả lời! Ví như vua của một nước, nếu trong nước có kẻ phạm tội thì vua ban lệnh tử hình, bắt nhốt, đuổi đi, đánh bằng roi, chặt đứt tay chân; còn đối với người có công thì vua ban thưởng voi, ngựa, xe cộ, thành, ấp, tiền bạc, của cải. Tất cả mọi việc như trên nhà vua đều có thể thực hiện được hết phải không?

Ni-kiền tử Tát-giá đáp:

– Thưa Cù-đàm, có thể được!

Đức Phật bảo:

– Phàm là chủ thì hoàn toàn được tự tại tùy ý phải không?

Đáp:

– Thưa Cù-đàm, đúng vậy!

Phật hỏi:

– Ông đã nói sắc là ngã; thọ, tưởng, hành, thức là ngã; vậy có thể tùy ý tự tại khiến nó như vầy hay không như vầy được chăng?

Lúc đó, Ni-kiền tử Tát-giá liền đứng im lặng. Đức Phật liền bảo:

– Hãy nói mau! Nói mau! Sao lại im lặng vậy?

Thế Tôn hỏi đến lần thứ ba nhưng Ni-kiền tử Tát-giá vẫn cứ im lặng. Ngay lúc ấy, có vị thần lực sĩ Kim Cang cầm chày kim cang bốc lửa hừng hực, đang ở giữa hư không phía trên đầu Ni-kiền tử Tát-giá, bảo rằng:

– Thế Tôn đã hỏi đến lần thứ ba mà ông không trả lời thì ta sẽ dùng chày kim cang đập nát đầu ông thành bảy mảnh.

Do thần lực của Phật nên chỉ có Ni-kiền tử Tát-giá nhìn thấy thần Kim Cang, còn những người khác không thấy. Khi ấy, Ni-kiền tử Tát-giá vô cùng sợ hãi, bạch Phật:

– Thưa Thế Tôn, không phải như vậy!

Đức Phật bảo Tát-giá:

– Ông từ từ suy nghĩ rồi sau đó hãy trả lời. Trước đây, khi ở trước mọi người, ông nói sắc là ngã; thọ, tưởng, hành, thức là ngã. Bây giờ, ông lại nói không phải. Như vậy trước sau trái nhau! Trước đây, ông thường nói “sắc là ngã; thọ, tưởng, hành, thức là ngã”, này cư sĩ Hỏa Chủng, bây giờ Ta hỏi ông: “Sắc là thường hay vô thường?”

Đáp:

– Là vô thường, thưa Cù-đàm! Phật lại hỏi:

– Những gì vô thường là khổ chăng?

Đáp:

– Thưa Cù-đàm, là khổ! Phật lại hỏi:

– Nếu những gì vô thường, là khổ, là pháp đổi thay thì vị Thánh đệ tử đa văn có nên ở trong đó thấy có ngã, khác ngã hay tồn tại trong nhau chăng?

Đáp:

– Không nên, thưa Cù-đàm!

Đức Phật dạy:

– Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như thế. Này Hỏa Chủng! Ông phải suy nghĩ thật kỹ rồi sau đó hãy trả lời.

Rồi Phật lại hỏi cư sĩ Hỏa Chủng:

– Nếu đối với sắc chưa lìa tham, chưa lìa dục, chưa lìa nhớ tưởng, chưa lìa yêu thích, chưa lìa thèm khát, khi sắc kia biến hoại hoặc đổi khác sẽ sanh lo buồn, khổ não chăng?

Đáp:

– Thưa Cù-đàm, đúng vậy!

Đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy.

Rồi đức Phật lại hỏi cư sĩ Hỏa Chủng:

– Nếu đối với sắc mà lìa tham, lìa dục, lìa nhớ tưởng, lìa yêu thích thèm khát, khi sắc kia biến hoại hoặc đổi khác thì ắt chẳng sanh lo buồn, khổ não chăng?

Đáp:

– Thật đúng như thế, thưa Cù-đàm! Đúng thật không khác.

Đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy.

Này cư sĩ Hỏa Chủng! Ví như có người thân mang nhiều bệnh khổ, luôn bị bệnh khổ bức bách; nếu bệnh khổ kia không dứt, không lành thì có được an vui chăng? Đáp:

– Thưa Cù-đàm, không thể được!

– Như thế, này cư sĩ Hỏa Chủng! Thân mang bệnh khổ, luôn bị bệnh khổ bức bách; nếu bệnh khổ kia không dứt, không lành thì nhất định sẽ không được an vui. Này cư sĩ Hỏa Chủng! Ví như có người mang búa vào núi tìm cây gỗ có lõi cứng chắc; thấy cây chuối to lớn ngay thẳng, liền đốn gốc, chặt lá, lột bẹ cho đến tận cùng vẫn không thể tìm thấy lõi chắc. Này cư sĩ Hỏa Chủng! Ông cũng giống như vậy, tự lập ra luận thuyết, nay Ta muốn tìm nghĩa lý chân thật trong đó, nhưng thấy chẳng có gì chắc thật thì cũng như cây chuối vậy! Thế mà ở giữa đại chúng, ông dám có những lời lẽ như thế. Ta không thấy ai trong chúng Sa-môn, Bà-la-môn này có những hiểu biết để có thể cùng luận nghị với những hiểu biết của Như Lai, bậc Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác mà không bị bẻ gãy; thế mà ông tự nói rằng: “Ta luận nghị như gió, khiến cỏ rạp cây gãy, đá nát, vàng tan, khuất phục cả long tượng, có thể khiến đối phương toát mồ hôi trán, đổ mồ hôi nách, các lỗ chân lông cũng đổ mồ hôi.” Nay ông tự luận rồi nhưng nghĩa thì không thể tự lập; trước đây nói năng khoác lác là có thể chiết phục điều này điều kia nhưng nay rốt cuộc tự lật đổ mình, chẳng thể nào động đến một sợi lông của Như Lai được!

Nhân đó, ở giữa đại chúng, Thế Tôn vén y Uất-đa-la-tăng, bày hở ngực và nói:

– Các ông thử xem! Có làm động được một sợi lông nào của Như Lai chăng? Bấy giờ, Ni-kiền tử Tát-giá im lặng cúi đầu, hổ thẹn biến sắc. Lúc ấy, trong chúng có một người Ly-xa tên Đột-mục-khư[9] từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa lại y phục, chắp tay bạch Phật:

– Thưa Thế Tôn! Xin cho phép con nói ví dụ.

Đức Phật bảo:

– Nên biết đúng lúc!

Đột-mục-khư bạch Phật:

– Thưa Thế Tôn! Ví như có người cầm cái đấu đến trước một đống lúa lớn mà chỉ xúc lấy hai, ba đấu; nay Ni-kiền tử Tát-giá cũng giống như vậy. Bạch Thế Tôn! Ví như vị trưởng giả giàu có nhiều tiền, bỗng phạm tội nặng nên tất cả tài sản đều bị nhà vua tịch thu; Ni-kiền tử Tát-giá cũng giống như vậy, có bao nhiêu biện tài đều bị Như Lai thâu nhiếp hết.

Ví như có thành ấp, làng xóm ở cạnh dòng sông lớn, trai gái lớn nhỏ đều xuống đó bơi lội nô đùa. Họ bắt con cua bẻ càng rồi vứt lên bờ cạn, vì không có chân nên cua không thể trở lại dòng sông. Ni-kiền tử Tát-giá cũng giống như thế, bao nhiêu biện tài có được đều bị Như Lai thâu nhiếp hết, không bao giờ dám đối mặt luận nghị cùng Như Lai nữa.

Bấy giờ, Ni-kiền tử Tát-giá vô cùng tức giận, liền mắng Ly-xa Đột-mục-khư:

– Ông thật đúng là lỗ mãng! Không biết gì thì sao lại dám lên tiếng? Ta đang luận nghị với Sa-môn Cù-đàm thì có can dự gì đến ông?

Mắng Đột-mục-khư xong, Ni-kiền tử Tát-giá thưa Phật:

– Bạch Thế Tôn! Lời của kẻ thấp hèn kia hãy gác qua, riêng tôi hôm nay có điều muốn hỏi.

Phật bảo Ni-kiền tử Tát-giá:

– Ông cứ hỏi, Ta sẽ giải đáp.

– Thưa Cù-đàm! Ngài thuyết pháp cho hàng đệ tử như thế nào để họ xa lìa nghi hoặc?

Đức Phật bảo cư sĩ Hỏa Chủng:

– Ta nói pháp cho hàng đệ tử như vầy: “Những gì thuộc về sắc, hoặc ở quá khứ, hoặc ở tương lai, hoặc ngay hiện tại, hoặc trong hoặc ngoài, hoặc thô hoặc tế, hoặc đẹp hoặc xấu, hoặc xa hoặc gần thì tất cả đều nên quán sát như thật, chẳng có ngã, chẳng khác ngã, chẳng tồn tại trong nhau. Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy.” Các vị ấy tu học như thế, nhất định không đoạn mất Kiến tích,[10] thành tựu niềm tin, thấy biết nhàm chán, canh giữ cửa giải thoát, tuy không phải tất cả đều đạt đến cứu cánh, nhưng đều hướng về Niết-bàn. Như thế, các đệ tử theo giáo pháp của Ta sẽ được xa lìa nghi hoặc.

Ni-kiền tử Tát-giá lại hỏi :

– Thưa Cù-đàm! Ngài dạy như thế nào để cho các đệ tử ở trong Phật pháp dứt sạch các lậu, được tâm vô lậu giải thoát, được tuệ giải thoát, ngay trong hiện tại tự mình tác chứng: “Sự sanh của ta đã dứt, Phạm hạnh đã được thành tựu, việc cần làm đã làm xong, tự biết không còn tái sanh”?

Đức Phật bảo cư sĩ Hỏa Chủng:

– Chính bằng pháp này: “Những gì thuộc về sắc, hoặc ở quá khứ, hoặc ở tương lai, hoặc ngay hiện tại, hoặc trong hoặc ngoài, hoặc thô hoặc tế, hoặc đẹp hoặc xấu, hoặc xa hoặc gần thì tất cả đều nên quán sát như thật, chẳng có ngã, chẳng khác ngã, chẳng tồn tại trong nhau. Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy.” Bấy giờ, các vị ấy thành tựu ba loại vô thượng: Trí vô thượng, giải thoát vô thượng,[11] giải thoát tri kiến[12] vô thượng. Thành tựu ba loại vô thượng này rồi, các vị ấy đối với Đại sư cung kính, tôn trọng, cúng dường như Phật. Thế Tôn giác ngộ tất cả pháp, liền dùng pháp này điều phục đệ tử, giúp họ được an ổn, được vô úy, điều phục tịch tĩnh, cứu cánh Niết-bàn. Thế Tôn vì Niết-bàn, vì đệ tử mà thuyết pháp. Này cư sĩ Hỏa Chủng! Đệ tử của Ta ở trong pháp này dứt sạch các lậu, được tâm vô lậu giải thoát, được tuệ giải thoát, ngay trong hiện tại tự mình tác chứng: “Sự sanh của ta đã dứt, Phạm hạnh đã được thành tựu, việc cần làm đã làm xong, tự biết không còn tái sanh.”

Ni-kiền tử Tát-giá bạch Phật:

– Thưa Cù-đàm! Giống như một tráng sĩ, đối trước mũi dao nhọn đang lao bổ vào mình thì vị ấy còn có thể tránh né, nhưng đối với thủ thuật luận nghị của Cù-đàm quả thật khó thoát được. Như loài rắn độc, còn có thể tránh; như lửa dữ giữa đầm hoang, còn có thể tránh; như voi say hung ác, vẫn có thể tránh; như sư tử đói điên cuồng, tất cả đều có thể tránh; nhưng đối với thủ thuật luận nghị của Sa-môn Cù-đàm thì thật khó thoát được. Hạng tầm thường, khinh suất lỗ mãng, luận thuyết nửa vời như tôi sẽ không còn dám đến chỗ Cù-đàm để luận nghị nữa.

Thưa Sa-môn Cù-đàm! Tỳ-xá-ly là đất nước an ổn trù phú, lại có nhiều tháp như Giá-ba-lê,[13] tháp Tát-am-la-thọ,[14] tháp Đa Tử,[15] tháp Cù-đàm[16] tại Câu-lâu-đà, tháp Ba-la-thọ-trì,[17] tháp Xả-trọng-đảm,[18] tháp Lực Sĩ Bảo Quan.[19]

Thưa Thế Tôn! Ngài sẽ an lạc ở tại nước Tỳ-xá-ly này, vì chư Thiên, Ma vương, Phạm thiên, Sa-môn, Bà-la-môn và loài người ở thế gian đối với Thế Tôn luôn luôn cung kính, phụng sự, cúng dường và nhờ đó mà chư Thiên, Ma vương, Phạm thiên, Sa-môn và Bà-la-môn thường được an lạc. Kính xin Thế Tôn hãy dừng lại nơi đây, sáng mai cùng với đại chúng thọ nhận bữa cơm đạm bạc của con!

Bấy giờ, Thế Tôn im lặng nhận lời. Biết Thế Tôn đã im lặng thọ thỉnh rồi, Ni-kiền tử Tát-giá hoan hỷ và tùy hỷ, rồi rời chỗ ngồi đứng dậy ra về.

Trên đường đi, Ni-kiền tử Tát-giá nói với nhóm người Ly-xa:

– Ta đã thỉnh Sa-môn Cù-đàm cùng đại chúng để cúng dường trai phạn rồi, các ông mỗi người hãy chuẩn bị một khay thức ăn rồi đem đến chỗ của ta.

Nhóm người Ly-xa trở về nhà, đêm đó sửa soạn thức ăn dâng cúng, sáng sớm đem đến chỗ Ni-kiền tử. Từ rất sớm, Ni-kiền tử Tát-giá đã quét dọn, trải bàn, bày sẵn nước sạch, rồi sai người đến chỗ đức Phật thưa: “Đã đến giờ!”

Khi ấy, Thế Tôn cùng đại chúng đắp y, ôm bát đến chỗ Ni-kiền tử Tát-giá rồi ngồi xuống trước đại chúng. Ni-kiền tử Tát-giá tự tay dâng cúng đầy đủ đồ ăn thức uống thanh tịnh lên đại chúng. Sau khi thọ thực và rửa bát xong, Nikiền tử Tát-giá biết Phật và đại chúng đã hoàn tất mọi việc, ông liền lấy một cái ghế thấp và ngồi trước Phật. Bấy giờ, Thế Tôn vì Ni-kiền tử Tát-giá mà tùy hỷ nói kệ:

Trong các loại tế tự,[20]                
Phụng thờ lửa đứng đầu,
Trong kinh điển Vệ-đà,               
Tán ca[21] là cao tột.
Loài người, vua cao nhất,         
Các sông, biển rộng hơn,
Các sao, trăng sáng nhất,         
Ánh sáng, mặt trời hơn,
Trời, người ở mười phương,     
Đẳng Chánh Giác tối thượng.

Bấy giờ, Thế Tôn vì Ni-kiền tử Tát-giá mà nói pháp, mở bày, dạy bảo, khích lệ, khiến cho hoan hỷ[22] rồi liền trở về trú xứ.

Trên đường trở về, các Tỳ-kheo cùng nhau bàn luận về việc năm trăm người Ly-xa đã vì Ni-kiền tử Tát-giá mà cúng dường đồ ăn thức uống; vậy các người Ly-xa đó sẽ được phước gì? Còn Ni-kiền tử Tát-giá sẽ được phước gì?

Khi các Tỳ-kheo đã về trú xứ, xếp cất y bát, rửa sạch chân xong, liền cùng nhau đến chỗ Thế Tôn, đảnh lễ dưới chân Phật, ngồi sang một bên và bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Trên đường đi, chúng con cùng nhau bàn luận về việc năm trăm người Ly-xa đã giúp Ni-kiền tử Tát-giá sửa soạn đồ ăn thức uống cúng dường Thế Tôn và đại chúng, vậy những người Ly-xa này được phước gì và Ni-kiền tử Tát-giá được phước gì?

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

– Năm trăm người Ly-xa này đã vì Ni-kiền tử Tát-giá sửa soạn thức ăn cúng dường sẽ có nhân duyên được phước ở chỗ Ni-kiền tử Tát-giá. Còn Ni-kiền tử Tát-giá thì được phước, được công đức ở chỗ Phật. Các Ly-xa sẽ được nhân duyên quả báo của bố thí nhưng còn tham, sân, si. Còn Ni-kiền tử Tát-giá cũng được nhân duyên quả báo của bố thí nhưng không còn tham, sân, si.

*

Kệ tóm tắt:

Bỉ đa-la thập vấn,               
Sai-ma, Diễm, Tiên-ni,
A-nậu-la trưởng giả,           
Tây, Mao đoan, Tát-giá.[23]

***

 

Chú thích:

[1] Tựa đề đặt theo nội dung kinh. Tạp. 雜 (T.02. 0099.110. 0035a17). Tham chiếu: Tăng. 增 (T.02. 0125.37.10. 0715a28); M. 35, Cūlasaccaka Sutta (Tiểu kinh Saccaka).

[2] Ni-kiền tử (尼揵子, Nigaṇṭhaputta), một phái ngoại đạo thời đức Phật, thường được gọi là Kỳ-na giáo hoặc Lõa hình ngoại đạo.

[3] A-thấp-bà-thệ (阿濕波誓, Assaji), Hán dịch Mã Thắng, một trong 5 Tỳ-kheo đầu tiên được Phật hóa độ.

[4] Hỏa Chủng (火種, Aggivessana) là tên riêng của một dòng họ Bà-la-môn, vì tôn trọng Ni-kiền tử Tát-giá nên Tỳ-kheo A-thấp-bà-thệ chỉ dùng tên dòng họ mà không gọi bằng tên riêng (theo DPPN).

[5] Ly-xa (離車, Licchavi).

[6] Nguyên tác: Trú ư thiên trụ (住於天住). M. 35, Cūlasaccaka Sutta (Tiểu kinh Saccaka): Divāvihāraṃ (nghỉ trưa).

[7] Nguyên tác: Tùy thuận pháp (隨順法, dhammānudhammappaṭipanna). Xem chú thích 68, kinh số 27, quyển 1, tr. 24; Tạp. 雜 (T.02. 0099.27. 0005c20).

[8] Nguyên tác: Sắc thị ngã nhân (色是我人). M. 35, Cūlasaccaka Sutta (Tiểu kinh Saccaka): Rūpattāyaṃ purisapuggalo (Sắc chất là tự ngã của con người).

[9] Đột-mục-khư (突目佉, Dummukha).

[10] Nguyên tác: Kiến tích (見跡), còn gọi là Kiến đạo tích (見道跡), chỉ cho việc đang tu hành hướng đến chỗ thấy Thánh đế.

[11] Bản Tống, Nguyên, Minh: Chữ “giải thoát” (解脫) được thay thế bằng chữ “đạo” (道).

[12] Bản Tống, Nguyên, Minh lược bỏ chữ “tri kiến” (知見).

[13] Giá-ba-lê (遮波梨). Theo D. 16, Mahāparinibbāna Sutta (Kinh Đại Bát-niết-bàn) gọi là tháp Cāpāla; Du hành kinh 遊行經 (T.01. 0001.2. 0015b16) gọi là Giá-bà-la (遮婆羅).

[14] Tát-am-la-thọ (漆菴羅樹). Theo A-nậu-di kinh 阿㝹夷經 (T.01. 0001.15. 0066c25) có thể là Ưu-viên tháp (憂園塔, Udena).

[15] Đa Tử (多子). A-nậu-di kinh 阿㝹夷經 (T.01. 0001.15. 0066c26) gọi là Đa Tử tháp (名多子塔, Bahuputta).

[16] Cù-đàm (瞿曇). A-nậu-di kinh 阿㝹夷經 (T.01. 0001.15. 0066c25) gọi là Tượng tháp (象塔, Gotamaka).

[17] Ba-la-thọ-trì (婆羅受持). D. 16, Mahāparinibbāna Sutta (Kinh Ðại Bát-niết-bàn) có thể là tháp Sārandada, vì “thọ trì” (受持) được dịch của Dada.

[18] Xả-trọng-đảm (捨重擔). Theo A-nậu-di kinh 阿㝹夷經 (T.01. 0001.15. 0066c26), có thể là Thất Tụ tháp (七聚塔, Sattamba).

[19] Lực Sĩ Bảo Quan (力士寶冠) còn gọi là Bảo Quan chi-đề (寶冠支提), là một ngôi tháp cổ trong xứ Mạt-la. Theo Liên Hoa diện kinh 蓮華面經 (T.12. 0386.1. 1073c03) trong thời quá khứ, Phật từng làm Chuyển Luân Thánh Vương và đã cởi mũ Thiên Quan để tại nơi đây, nhân đó mà có tên (乃是我過去 為轉輪聖王. 解寶天冠在此). Thánh tích này ngày nay gọi là tháp Trà-tỳ (Ramabhar Stupa).

[20] Nguyên tác: Đại hội (大會), chỉ cho các loại tế lễ (yañña).

[21] Nguyên tác: Bà-tỳ-đế (婆毘諦), có khả năng chỉ cho thể thơ kệ, tán ca về chân lý (S. satya, P. sacca). Tham chiếu: Cứu-la-đàn-đầu kinh 究羅檀頭經 (T.01. 0001.23. 0101a08) ghi là “phúng tụng thi vi thượng” (諷誦詩為上); Tăng. 增 (T.02. 0125.18.4. 0589b03) ghi là “chúng thư tụng vi tối” (眾書頌 為最).

[22] Nguyên tác: Thị, giáo, chiếu, hỷ (示, 教, 照, 喜). Xem chú thích 24, kinh số 92, quyển 4, tr. 105; Tạp. 雜 (T.02. 0099.92. 0023c18).

[23] Nguyên tác Nhiếp tụng: 彼多羅十問; 差摩, 焰, 仙尼; 阿㝹羅長者; 西, 毛端, 薩遮. Do đặt lại tựa đề nên Nhiếp tụng không trùng với tên kinh. Bản Hán, hết quyển

 

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.