Viện Nghiên Cứu Phật Học

Tam tạng Thánh điển PGVN 20 » Tam tạng Phật giáo Bộ phái 04 » 

KINH TẠP A-HÀM
(雜阿含經)

Hòa Thượng THÍCH THIỆN SIÊU
Hòa Thượng THÍCH THANH TỪ

Mục Lục

KINH SỐ 110
 

Tôi nghe như vầy:
Một thời, đức Phật trú tại Tỳ-xá-ly, bên bờ ao Di Hầu, trong nước Tỳ-xá-ly có Ni-kiền tử thông tuệ, minh triết, hiểu rõ các luận, kiêu mạn về sự thông minh, đã học tập các thứ luận, diệu trí đến mức tuyệt vời, thuyết pháp vượt qua các luận sư, thường nghĩ rằng: “Các Sa-môn, Bà-la-môn không ai bằng ta, cho đến Như Lai, ta cũng có thể cùng nghị luận. Các luận sư nghe danh của ta đều toát mồ hôi trán, lỗ chân lông đều toát mồ hôi. Ta luận nghĩa như gió làm rập cỏ, gãy cây, đập nát vàng đá, hàng phục long tượng, huống chi bọn luận sư ở thế gian mà có thể đương đầu với ta.”
Lúc ấy, có Tỳ-kheo tên là A-thấp-bà-thệ, sáng sớm đắp y, mang bát, đầy đủ oai nghi, mắt nhìn đoan chánh, vào thành khất thực.
Bấy giờ, Tát-giá Ni-kiền tử có chút việc đi vào làng xóm, từ cửa thành đi ra, trông thấy Tỳ-kheo A-thấp-bà-thệ liền đi tới chỗ của Tỳ-kheo và hỏi:
– Sa-môn Cù-đàm nói pháp cho các đệ tử như thế nào? Đem những pháp nào dạy cho các đệ tử tu tập?
A-thấp-bà-thệ nói:
– Này Hỏa Chủng cư sĩ, Thế Tôn nói pháp như thế này, dạy các đệ tử theo đó tu học. Ngài nói: “Này các Tỳ-kheo, đối với sắc nên quán vô ngã; thọ, tưởng, hành, thức nên quán vô ngã. Năm thọ ấm này, siêng năng phương tiện quán sát như bệnh, như ung nhọt, như gai nhọn, như giết hại, vô thường, khổ, không, chẳng phải ngã.”
Tát-giá Ni-kiền tử nghe lời nói này tâm không vui, nói rằng:
– A-thấp-bà-thệ, chắc có lẽ ông nghe lầm, Sa-môn Cù-đàm không hề nói như thế. Nếu Sa-môn Cù-đàm nói như thế thì đó là tà kiến; tôi sẽ đến gạn hỏi để ngăn dứt điều đó.
Tát-giá Ni-kiền tử đi đến làng xóm, tập hợp những người Ly-xa một chỗ và bảo với họ:
– Hôm nay tôi gặp người đệ tử bậc nhất của Cù-đàm tên là A-thấp-bà-thệ, cùng nhau luận nghị. Nếu như lời nói của ông ấy, tôi sẽ đi đến chỗ Sa-môn Cù-đàm để cùng luận nghị, tiến tới hay xoay lại chắc chắn là tùy theo ý ta. Ví như người cắt cỏ rậm, hay nắm cọng cỏ, đưa lên rũ trừ các bụi bặm; tôi cũng như thế, tôi cùng với Sa-môn Cù-đàm luận nghị, gạn hỏi, nắm lấy điều yếu lĩnh của Ông ấy, tiến tới hay xoay lại tùy ý, trừ bỏ tà thuyết của Ông ta. Như nhà nấu rượu cầm đảy rượu ép lấy nước rượu tinh thuần, bỏ đi cặn bã; tôi cũng như thế, đi đến chỗ Sa-môn Cù-đàm cùng luận nghị, cật nạn, tiến tới hay xoay lại, nắm lấy ý nghĩa trong sáng, chân thật, trừ bỏ đi những tà thuyết. Ví như thợ dệt chiếu, vì trên chiếu dính vết nhơ nên phải giặt sạch, tẩy xóa những vết nhơ trước khi đem ra chợ bán; tôi cũng như thế, đến luận nghị với Sa-môn Cù-đàm, muốn tiến tới hay xoay chuyển, nắm lấy những điều cương lĩnh và bỏ đi những lời nói càn. Giống như người điều phục voi của vua, người đó lôi con voi say vào trong nước sâu, tắm rửa thân thể của nó, toàn thân con voi được rửa ráy, tẩy sạch nhơ uế; tôi cũng như thế, tôi đi đến chỗ Sa-môn Cù-đàm luận nghị, cật nạn, tiến tới hoặc xoay lại, tùy ý tự tại, nắm lấy cương lĩnh của Ông ta, bỏ đi những lời nói càn. Các người Ly-xa cũng nên cùng đi với tôi để xem sự đắc thất.
Trong đám Ly-xa có người nói:
– Tát-giá Ni-kiền tử có thể cùng với Sa-môn Cù-đàm luận nghị, chuyện đó không thể xảy ra.
Lại có người nói:
– Tát-giá Ni-kiền tử thông tuệ, lợi căn có thể cùng Sa-môn Cù-đàm luận nghị.
Lúc ấy, có năm trăm Ly-xa cùng với Tát-giá Ni-kiền tử đi đến chỗ Phật để luận nghị. Thế Tôn đang ở trong rừng Đại Lâm, ngồi dưới cội cây, chỗ chư thiên trú. Bấy giờ, có nhiều Tỳ-kheo ra khỏi phòng, đi kinh hành trong rừng, xa xa trông thấy Tát-giá Ni-kiền tử đang từ từ đến chỗ các Tỳ-kheo và hỏi các Tỳ-kheo:
– Sa-môn Cù-đàm đang ở đâu?
Các Tỳ-kheo đáp:
– Ngài đang ở trong Đại Lâm, ngồi dưới cội cây, chỗ chư thiên trú.
Tát-giá Ni-kiền tử liền đi đến chỗ Phật, cung kính chào hỏi, rồi ngồi qua một bên. Các trưởng giả Ly-xa cũng đi đến chỗ Phật, có người cung kính, có người chắp tay chào hỏi, rồi đứng qua một bên. Tát-giá Ni-kiền tử bạch Phật:
– Tôi nghe Cù-đàm thuyết pháp và dạy các đệ tử như sau: “Đối với sắc quán sát vô ngã; đối với thọ, tưởng, hành, thức, quán sát vô ngã. Siêng năng, phương tiện quán sát năm thọ ấm này như bệnh, như ung nhọt, như gai nhọn, như giết hại, vô thường, khổ, không, chẳng phải ngã.” Đó là Cù-đàm có dạy như vậy hay là lời người truyền lại hủy báng Cù-đàm? Đó là nói đúng như lời dạy hay là nói không đúng như lời dạy chăng? Có phải nói đúng như pháp chăng? Nói như pháp và thứ pháp chăng? Không có kẻ dị kiến đến cật nạn khiến phải bị thua họ chăng?
Phật nói với Tát-giá Ni-kiền tử:
– Đúng như điều ông đã nghe, các đệ tử nói đúng như Ta nói, nói đúng như pháp, nói pháp và thứ pháp. Chẳng phải là hủy báng, cũng không phải là nạn vấn khiến phải bị thua họ. Vì sao? Ta thật vì các đệ tử thuyết pháp như thế, Ta thật thường dạy các đệ tử khiến tùy thuận theo pháp giáo, khiến quán sát sắc là vô ngã; thọ, tưởng, hành, thức là vô ngã, quán năm thọ ấm này như bệnh, như ung nhọt, như gai nhọn, như giết hại, vô thường, khổ, không, chẳng phải ngã.
Tát-giá Ni-kiền tử bạch Phật:
– Thưa Cù-đàm, bây giờ tôi muốn nói ví dụ.
Phật bảo Tát-giá Ni-kiền tử:
– Ông nên biết đúng lúc!
– Ví như tất cả mọi việc làm ở thế gian, đều nương nơi đất, cũng như vậy sắc là ngã, là nhân; mọi thiện, ác từ đó sanh. Lại ví như loài người, loài thần, dược thảo, cây cối đều nương nơi đất mà được sinh trưởng. Cũng như vậy, sắc là ngã, là nhân; thọ, tưởng, hành, thức là ngã, là nhân.
Phật bảo Hỏa Chủng cư sĩ:
– Ông nói sắc là ngã, là nhân; thọ, tưởng, hành, thức là ngã, là nhân chăng?
– Thưa Cù-đàm, đúng như vậy. Sắc là ngã, là nhân; thọ, tưởng, hành, thức là ngã, là nhân. Các người ở đây đều nói như thế.
Phật bảo Hỏa Chủng cư sĩ:
– Thôi! Hãy cứ lập luận thuyết của ông, cần gì dẫn đến người khác.
Tát-giá Ni-kiền tử bạch Phật:
– Sắc thật là ngã, là nhân.
Phật bảo Hỏa Chủng cư sĩ:
– Bây giờ Ta hỏi ông, ông hãy tùy ý đáp. Ví như nhà vua ở tại nước mình có kẻ phạm tội thì đáng bị giết hoặc bị trói, hoặc đuổi đi, hoặc đánh bằng roi, hoặc chặt đứt tay chân. Còn nếu là người có công thì sẽ được ban cho voi, ngựa, xe cộ, thành ấp, tiền bạc, của cải. Vua có thể làm tất cả những việc thưởng phạt này không?
Đáp:
– Thưa Cù-đàm, có thể được!
Phật bảo Hỏa Chủng cư sĩ:
– Hễ là người chủ thì chắc chắn là được tự tại phải không?
Đáp:
– Thưa Cù-đàm, đúng như thế!
Phật bảo Hỏa Chủng cư sĩ:
– Ông nói sắc là ngã; thọ, tưởng, hành, thức là ngã, được tùy ý tự tại khiến nó như thế, hay không khiến nó như thế chăng?
Lúc đó, Tát-giá Ni-kiền tử đứng im lặng.
Phật bảo Hỏa Chủng cư sĩ:
– Nói mau! Nói mau! Vì sao im lặng?
Ba lần như thế. Tát-giá Ni-kiền tử vẫn đứng im lặng. Trong khi ấy thần Kim Cương lực sĩ cầm chày kim cương bốc lửa hừng hực đang ở giữa hư không, đặt lên đầu Tát-giá Ni-kiền tử bảo rằng: “Thế Tôn đã ba lần hỏi, vì sao ông không đáp? Ta sẽ dùng chày kim cương đập nát đầu ông ra làm bảy phần.”
Do thần lực của Phật nên chỉ khiến cho Tát-giá Ni-kiền tử thấy được thần Kim Cương, còn những người khác đều không thấy. Tát-giá Ni-kiền tử sợ hãi, bạch Phật:
– Thưa Thế Tôn, không phải như thế!
Phật bảo Tát-giá Ni-kiền tử:
– Nên từ từ suy nghĩ, sau đó mới giải nói. Trước đây ông ở trong chúng nói sắc là ngã; thọ, tưởng, hành, thức là ngã, mà bây giờ nói là không phải. Lời nói trước sau trái nhau. Trước đây ông thường nói sắc là ngã; thọ, tưởng, hành, thức là ngã. Này Hỏa Chủng cư sĩ, bây giờ Ta hỏi ông: Sắc là thường hay vô thường?
– Thưa Cù-đàm, vô thường.
Phật lại hỏi:
– Vô thường là khổ chăng?
– Thưa Cù-đàm, là khổ!
Phật lại hỏi:
– Vô thường, khổ, là pháp biến dịch thì đa văn Thánh đệ tử có nên ở trong ấy thấy là ngã, khác ngã, hoặc ở trong nhau chăng?
– Thưa không, Cù-đàm!
Thọ, tưởng, hành, thức cũng nói như vậy.
Phật bảo Hỏa Chủng cư sĩ:
– Ông khéo suy nghĩ rồi nói.
Phật lại hỏi Hỏa Chủng cư sĩ:
– Nếu đối với sắc chưa lìa tham, chưa lìa dục, chưa lìa niệm, chưa lìa ái, chưa lìa khao khát thì khi sắc kia hoặc biến đổi, hoặc khác đi sẽ sanh lo buồn, khổ não chăng?
– Thưa Cù-đàm, đúng như thế!
Thọ, tưởng, hành, thức cũng nói như vậy.
Phật lại hỏi Hỏa Chủng cư sĩ:
– Đối với sắc lìa tham, lìa dục, lìa niệm, lìa ái, lìa khao khát thì khi sắc kia hoặc biến đổi, hoặc khác đi sẽ chẳng sanh lo buồn, khổ não chăng?
– Đúng như thế, thưa Cù-đàm! Như thật không khác.
Thọ, tưởng, hành, thức cũng nói như thế.
– Này Hỏa Chủng cư sĩ, ví như một người thân mắc bệnh khổ, luôn luôn sống đau khổ, cái khổ kia không dứt, không xả bỏ, sẽ được an vui chăng?
– Thưa không, Cù-đàm!
– Như thế, này Hỏa Chủng cư sĩ, thân đầy bệnh khổ, luôn luôn sống đau khổ, cái khổ kia không dứt, không xả bỏ thì chẳng được an vui. Này Hỏa Chủng cư sĩ, ví như một người mang búa vào trong núi, tìm gỗ cây rắn chắc, thấy cây chuối to lớn ngay thẳng, liền chặt lá, lột bẹ cho đến cũng tận thân chuối đều không rắn chắc. Này Hỏa Chủng cư sĩ, ông cũng như vậy, tự lập luận thuyết. Nay Ta khéo tìm nghĩa lý chân thật trong đó, thấy đều không có gì chắc thật, y như cây chuối. Thế mà ở trong chúng này, ông dám đem ra nói: “Ta chẳng thấy Sa-môn, Bà-la-môn đem tri kiến của họ để có thể luận nghị với tri kiến của Như Lai mà không bị ta điều phục.” Ông lại tự nói: “Ta luận nghị như gió làm rạp cỏ, gãy cây, dập nát vàng đá, điều phục long tượng, đến nỗi khiến đối phương phải toát mồ hôi trán, chân lông đẫm mồ hôi.” Bây giờ ông tự luận nghị rồi, nhưng không tự lặp lại lời nói khoác lác trước kia, không dẹp hết các tướng kia. Nay ông đã đem hết lý lẽ thủ đắc của mình mà không thể làm lay động Như Lai một mảy lông.
Bấy giờ, Thế Tôn ở trong đại chúng trật y Uất-đa-la-tăng, bày ngực và chỉ:
– Các ông thử nhìn xem! Có thể làm lay động đến Như Lai một mảy lông không?
Khi ấy, Tát-giá Ni-kiền tử im lặng, cúi đầu, hổ thẹn, thất sắc. Lúc ấy, trong chúng có một Ly-xa tên là Đột-mục-khư từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa lại y phục, chắp tay bạch Phật:
– Thưa Thế Tôn, xin cho phép con nói ví dụ.
Phật bảo Đột-mục-khư:
– Ông nên biết thời!
Đột-mục-khư bạch Phật:
– Thưa Thế Tôn, ví như có người cầm cái đấu, cái hộc, từ trong đống thóc xúc ra hai ba hộc. Nay Tát-giá Ni-kiền tử này cũng như thế. Thưa Thế Tôn, ví như trưởng giả giàu có, nhiều của cải, bỗng phạm tội, tất cả tài vật đều bị nhà vua tịch thu. Tát-giá Ni-kiền tử cũng như vậy, có bao nhiêu tài biện luận đều bị Như Lai thu tóm hết. Ví như ở ven thành ấp, làng xóm, có dòng sông: Trai gái, lớn nhỏ đều nô đùa trong nước; họ bắt con cua bẻ gãy chân rồi thả cua trên đất. Vì không có chân nên con cua không thể trở lại dòng sông. Tát-giá Ni-kiền tử cũng như thế, các tài biện luận đều bị Như Lai bẻ gãy, tuyệt nhiên không dám trở lại cùng với Như Lai đối địch luận nghị.
Lúc đó, Tát-giá Ni-kiền tử vô cùng giận dữ, mắng chửi Ly-xa Đột-mục-khư:
– Ông là đồ ngu ngốc, không biết gì cũng lên tiếng, ta tự luận nghị với Sa-môn Cù-đàm nào có can dự gì đến ông?
Tát-giá Ni-kiền tử mắng nhiếc Đột-mục-khư xong, bạch Phật:
– Gác lời nói của tên hạ tiện qua một bên, riêng tôi có điều cần hỏi.
Phật bảo Tát-giá Ni-kiền tử:
– Ông cứ hỏi, Ta sẽ giải đáp theo câu hỏi.
– Cù-đàm vì các đệ tử thuyết pháp như thế nào để lìa nghi hoặc.
Phật bảo Hỏa Chủng cư sĩ:
– Ta vì các đệ tử nói: “Những gì thuộc về sắc hoặc quá khứ, hoặc vị lai, hoặc hiện tại, hoặc trong, hoặc ngoài, hoặc thô tế, hoặc đẹp xấu, hoặc xa gần. Tất cả đều quán sát như thật, chẳng phải ngã, chẳng khác ngã, chẳng ở trong nhau. Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy.” Cái học ấy chắc chắn thấy được dấu đạo, không dứt mất, có thể thành tựu được tri kiến, nhàm lìa, giữ pháp môn giải thoát, tuy chẳng phải tất cả đều được cứu cánh nhưng hướng về Niết-bàn. Như thế các đệ tử theo giáo pháp của Ta, được lìa nghi hoặc.
Lại hỏi:
– Thưa Cù-đàm, Ngài dạy như thế nào khiến các đệ tử nơi Phật pháp được sạch hết các lậu, tâm vô lậu giải thoát, tuệ giải thoát, ở trong pháp hiện tại tự biết chứng đắc: “Sự sanh của ta đã dứt, Phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm xong, tự biết không còn thọ thân sau”?
Phật bảo Hỏa Chủng cư sĩ:
– Chính do pháp này, những gì thuộc về sắc hoặc quá khứ, hoặc vị lai, hoặc hiện tại, hoặc trong, hoặc ngoài, hoặc thô tế, hoặc tốt xấu, hoặc xa gần, tất cả đều biết như thật chẳng phải ngã, chẳng khác ngã, chẳng ở trong nhau. Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy. Người kia khi ấy thành tựu ba thứ vô thượng: Trí vô thượng, giải thoát vô thượng, giải thoát tri kiến vô thượng; thành tựu được ba thứ vô thượng rồi, đối với bậc Đạo sư, cung kính, tôn trọng, cúng dường chư Phật. Thế Tôn giác ngộ tất cả pháp, đem pháp này điều phục đệ tử, làm cho họ an ổn, không sợ hãi, điều phục, tịch tĩnh, cứu cánh Niết-bàn. Thế Tôn vì Niết-bàn an lạc nên nói pháp cho các đệ tử. Này Hỏa Chủng cư sĩ, đệ tử của Ta ở trong pháp này được sạch hết các lậu hoặc, được tâm giải thoát, tuệ giải thoát, ở trong pháp hiện tại tự biết chứng đắc: “Sự sanh của ta đã dứt, Phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm xong, tự biết không còn thọ thân sau.”
Tát-giá Ni-kiền tử bạch Phật:
– Thưa Cù-đàm, cũng như một người khỏe mạnh bị những mũi dao nhọn rơi loạn xạ vào mình còn có thể tránh khỏi, nhưng đối với thủ thuật luận nghị của Cù-đàm thật khó có thể thoát khỏi. Như con rắn đầy nọc độc có thể tránh được, như lửa dữ trong cánh đồng hoang còn có thể tránh được, như voi say hung ác còn có thể tránh, như sư tử đói cuồng nộ, tất cả đều có thể tránh được; chứ đối với thủ thuật luận nghị của Sa-môn Cù-đàm thật khó có thể thoát khỏi, đâu phải như luận thuyết tầm thường, quê kệch, thiếu sót của tôi. Vì muốn luận nghị nên tôi đi đến chỗ Cù-đàm. Thưa Sa-môn Cù-đàm, tại đất nước Tỳ-xá-ly phong phú, an lạc này, có tháp miếu Giá-ba-lê, Tát-yêm-la-thọ, tháp miếu Đa Tử, Cù-đàm ở tại tháp miếu Câu-lậu-đà, Ba-la Thọ Trì, Xả-trọng-đảm, Lực Sĩ Bảo Quan, Thế Tôn nên an vui ở lại nước Tỳ-xá-ly này, chư Thiên, Ma, Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn, và những người thế gian luôn luôn đối với Thế Tôn rất cung kính, phụng sự, cúng dường khiến cho chư Thiên, Ma, Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn luôn luôn được an lạc. Xin Ngài hãy dừng lại nơi đây, sáng mai cùng với đại chúng thọ dụng bữa cơm đạm bạc của con.
Bấy giờ, Thế Tôn im lặng nhận lời. Tát-giá Ni-kiền tử biết Thế Tôn đã im lặng nhận lời, tỏ vẻ vui mừng tùy hỷ, rời chỗ ngồi đứng lên rồi ra về.
Đi dọc đường, Tát-giá Ni-kiền tử bảo với các Ly-xa:
– Ta đã mời Sa-môn Cù-đàm cùng đại chúng cúng dường bữa ăn, các người mỗi người phải lo sửa soạn thức ăn đem đến chỗ của ta.
Các Ly-xa mỗi người trở về nhà sửa soạn thức ăn, sớm đem đến nhà của Ni-kiền tử. Tát-giá Ni-kiền tử sáng sớm quét dọn, trải bàn, để sẵn nước sạch, rồi sai người đến chỗ Phật, thưa rằng: “Thì giờ đã đến, xin Ngài biết cho.”
Khi ấy, Thế Tôn cùng với đại chúng đắp y, ôm bát đến chỗ Tát-giá Ni-kiền tử ngồi trước đại chúng. Tát-giá Ni-kiền tử tự tay sớt thức ăn thanh khiết đầy đủ cho đại chúng. Sau khi thọ thực và rửa bát xong, Tát-giá Ni-kiền tử biết Phật thọ thực rồi, rửa bát rồi, đặt một cái ghế nhỏ ngồi ở trước Phật. Bấy giờ, Thế Tôn vì Tát-giá Ni-kiền tử nói kệ tùy hỷ:
Trong các thứ đại hội, Thờ lửa là hơn hết,
Trong kinh điển Vệ-đà Bà-tỳ-đế cao tột.
Với người, vua hơn hết, Các sông, biển lớn nhất,
Các sao, trăng sáng nhất, Các sáng, mặt trời hơn,
Trong mười phương trời, người, Đẳng Chánh Giác tối thượng.
Bấy giờ, Thế Tôn vì Tát-giá Ni-kiền tử nói các thứ pháp, chỉ dạy, soi sáng, làm cho an vui, xong rồi trở về chỗ cũ. Dọc đường các Tỳ-kheo cùng nhau bàn bạc: “Năm trăm Ly-xa đã vì Tát-giá Ni-kiền tử đem thức ăn uống cúng dường. Các Ly-xa này được phước gì? Còn Tát-giá Ni-kiền tử được phước gì?”
Các Tỳ-kheo trở về trụ xứ của họ, dẹp y bát, rửa chân xong, cùng đi đến chỗ Thế Tôn, đầu mặt lễ chân Phật, rồi ngồi qua một bên, bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn, chúng con đi dọc đường cùng nhau bàn bạc về chuyện năm trăm người Ly-xa đã giúp Tát-giá Ni-kiền tử sửa soạn thức ăn uống, cúng dường Thế Tôn và đại chúng, những người Ly-xa này được phước gì và Tát-giá Ni-kiền tử được phước gì?
Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Những người Ly-xa vì Tát-giá Ni-kiền tử sửa soạn thức ăn cúng dường, ở nơi chỗ Tát-giá Ni-kiền tử sửa soạn thức ăn cúng dường, ở nơi chỗ Tát-giá Ni-kiền tử làm nhân duyên được phước. Tát-giá Ni-kiền tử được phước Phật công đức. Những người Ly-xa được nhân duyên quả báo của bố thí nhưng còn tham, sân, si. Còn Tát-giá Ni-kiền tử được nhân duyên quả báo của bố thí không còn tham, sân, si.
*
Bài kệ tóm tắt nội dung các kinh trên:
Mười câu hỏi Đa-la, Sai-ma, Diệm, Tiên-ni,
A-nậu-la trưởng giả, Tây, Sợi lông, Tát-giá.

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.